Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 68: Phẩm Vô Sở Đắc 8

07/07/201511:55(Xem: 14459)
Quyển 68: Phẩm Vô Sở Đắc 8

Kinh Dai Bat Nha- HT Thich Tri Nghiem_2_b
Tập 02

Quyển 68
Phẩm Vô Sở Đắc 8

Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí

 

 

 

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải ngã, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự chẳng phải ngã, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát chẳng phải ngã, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ chẳng phải ngã, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không chẳng phải ngã, cũng không tan mất; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt chẳng phải ngã, cũng không tan mất; sáu phép thần thông chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật chẳng phải ngã, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết chẳng phải ngã, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất chẳng phải ngã, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải ngã, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ chẳng phải ngã, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu chẳng phải ngã, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như lai chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa chẳng phải ngã, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp tịch tịnh, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp tịch tịnh, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào là tịch tịnh, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc tịch tịnh, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ tịch tịnh, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ tịch tịnh, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới tịch tịnh, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới tịch tịnh, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới tịch tịnh, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới tịch tịnh, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giới tịch tịnh, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giới tịch tịnh, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giới tịch tịnh, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giới tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ tịch tịnh, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minh tịch tịnh, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội tịch tịnh, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa tịch tịnh, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự tịch tịnh, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắc tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát tịch tịnh, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ tịch tịnh, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không tịch tịnh, cũng không tan mất; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt tịch tịnh, cũng không tan mất; sáu phép thần thông tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật tịch tịnh, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết tịch tịnh, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất tịch tịnh, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni tịch tịnh, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ tịch tịnh, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu tịch tịnh, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như lai tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa tịch tịnh, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp viễn ly, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp viễn ly, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào viễn ly, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc viễn ly, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ viễn ly, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ viễn ly, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới viễn ly, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới viễn ly, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới viễn ly, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới viễn ly, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giới viễn ly, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giới viễn ly, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giới viễn ly, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giới viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ viễn ly, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minh viễn ly, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội viễn ly, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa viễn ly, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự viễn ly, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắc viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát viễn ly, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ viễn ly, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không viễn ly, cũng không tan mất; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt viễn ly, cũng không tan mất; sáu phép thần thông viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật viễn ly, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết viễn ly, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất viễn ly, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni viễn ly, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ viễn ly, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu viễn ly, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như lai viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa viễn ly, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp không, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp không, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào là không, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc là không, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ là không, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ là không, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới là không, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới là không, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới là không, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới là không, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giới là không, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giới là không, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giới là không, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ là không, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minh là không, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội là không, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa là không, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự là không, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát là không, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là không, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không là không, cũng không tan mất; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt là không, cũng không tan mất; sáu phép thần thông là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật là không, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết là không, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất là không, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni là không, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ là không, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu là không, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như lai là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa là không, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp là vô tướng, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp là vô tướng, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào là vô tướng, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc là vô tướng, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ là vô tướng, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ là vô tướng, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới là vô tướng, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới là vô tướng, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới là vô tướng, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới là vô tướng, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giới là vô tướng, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giới là vô tướng, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giới là vô tướng, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giới là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ là vô tướng, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minh là vô tướng, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội là vô tướng, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa là vô tướng, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự là vô tướng, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắc là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát là vô tướng, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là vô tướng, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không là vô tướng, cũng không tan mất; pháp môn giải thoát là vô tướng, vô nguyện là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt là vô tướng, cũng không tan mất; sáu phép thần thông là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật là vô tướng, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết là vô tướng, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất là vô tướng, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni là vô tướng, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ là vô tướng, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu là vô tướng, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như lai là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa là vô tướng, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp là vô nguyện, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp là vô nguyện, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào là vô nguyện, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc là vô nguyện, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ là vô nguyện, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ là vô nguyện, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới là vô nguyện, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới là vô nguyện, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới là vô nguyện, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới là vô nguyện, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giới là vô nguyện, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giới là vô nguyện, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giới là vô nguyện, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giới là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ là vô nguyện, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minh là vô nguyện, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội là vô nguyện, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa là vô nguyện, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự là vô nguyện, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắc là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát là vô nguyện, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là vô nguyện, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không là vô nguyện, cũng không tan mất; pháp môn giải thoát là vô tướng, là vô nguyện là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt là vô nguyện, cũng không tan mất; sáu phép thần thông là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật là vô nguyện, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết là vô nguyện, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất là vô nguyện, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni là vô nguyện, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ là vô nguyện, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu là vô nguyện, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như lai là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa là vô nguyện, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp là thiện, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp là thiện, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào là thiện, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc là thiện, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ là thiện, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ là thiện, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới là thiện, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới là thiện, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới là thiện, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới là thiện, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giới là thiện, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giới là thiện, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giới là thiện, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giới là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ là thiện, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minh là thiện, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội là thiện, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa là thiện, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự là thiện, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắc là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát là thiện, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là thiện, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không là thiện, cũng không tan mất; pháp môn giải thoát là vô tướng, là vô nguyện là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt là thiện, cũng không tan mất; sáu phép thần thông là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật là thiện, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết là thiện, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất là thiện, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni là thiện, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ là thiện, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc là thiện tuệ, bậc Pháp vân là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu là thiện, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như lai là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa là thiện, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp là vô tội, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp là vô tội, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào là vô tội, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc là vô tội, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ là vô tội, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ là vô tội, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới là vô tội, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới là vô tội, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới là vô tội, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới là vô tội, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giới là vô tội, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giới là vô tội, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giới là vô tội, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giới là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ là vô tội, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minh là vô tội, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội là vô tội, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa là vô tội, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự là vô tội, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắc là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát là vô tội, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là vô tội, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không là vô tội, cũng không tan mất; pháp môn giải thoát là vô tướng, là vô nguyện là vô tội, cũng không tan mất. Xá Lợi Tử! Năm loại mắt là vô tội, cũng không tan mất; sáu phép thần thông là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật là vô tội, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết là vô tội, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất là vô tội, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni là vô tội, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ là vô tội, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc là thiện tuệ, bậc Pháp vân là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu là vô tội, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như lai là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa là vô tội, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp là vô lậu, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp là vô lậu, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào là vô lậu, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc là vô lậu, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ là vô lậu, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ là vô lậu, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới là vô lậu, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới là vô lậu, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới là vô lậu, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới là vô lậu, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giới là vô lậu, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giới là vô lậu, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giới là vô lậu, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giới là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ là vô lậu, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minh là vô lậu, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội là vô lậu, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa là vô lậu, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự là vô lậu, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắc là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát là vô lậu, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là vô lậu, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không là vô lậu, cũng không tan mất; pháp môn giải thoát là vô tướng, là vô nguyện là vô lậu, cũng không tan mất. Xá Lợi Tử! Năm loại mắt là vô lậu, cũng không tan mất; sáu phép thần thông là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật là vô lậu, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết là vô lậu, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất là vô lậu, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni là vô lậu, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ là vô lậu, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc là thiện tuệ, bậc Pháp vân là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu là vô lậu, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như lai là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa là vô lậu, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp là vô nhiễm, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp là vô nhiễm, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào là vô nhiễm, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc là vô nhiễm, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ là vô nhiễm, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ là vô nhiễm, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới là vô nhiễm, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới là vô nhiễm, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới là vô nhiễm, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới là vô nhiễm, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giới là vô nhiễm, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giới là vô nhiễm, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giới là vô nhiễm, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giới là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ là vô nhiễm, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minh là vô nhiễm, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội là vô nhiễm, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh là vô nhiễm, cũng không tan mất.

 

Quyển thứ 68

Hết

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8089)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 4869)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37218)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6145)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6109)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5753)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5644)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5923)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5459)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8769)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]