Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 95: Phẩm Cầu Bát Nhã 7

07/07/201516:46(Xem: 14682)
Quyển 95: Phẩm Cầu Bát Nhã 7

Tập 02
Quyển 95
Phẩm Cầu Bát Nhã 7
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí

 

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng nên cầu nơi tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng nên lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni mà cầu, chẳng nên lìa tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà cầu. Vì sao? Vì hoặc tất cả pháp môn Đà-la-ni, hoặc tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, hoặc lìa tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng phải tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng phải lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng phải lìa tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng phải tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng phải là lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng phải lìa tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng nên cầu nơi tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng nên lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni mà cầu, chẳng nên lìa tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi Dự-lưu, chẳng nên cầu nơi Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng nên lìa Dự-lưu mà cầu, chẳng nên lìa Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà cầu. Vì sao? Vì hoặc Dự-lưu, hoặc Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; hoặc lìa Dự-lưu, hoặc lìa Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải Dự-lưu, chẳng phải Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng phải lìa Dự-lưu, chẳng phải lìa Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải Dự-lưu, chẳng phải Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng phải là lìa Dự-lưu, chẳng phải lìa Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi Dự-lưu, chẳng nên cầu nơi Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng nên lìa Dự-lưu mà cầu, chẳng nên lìa Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng nên cầu nơi Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả; chẳng nên lìa Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả mà cầu, chẳng nên lìa Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả mà cầu. Vì sao? Vì hoặc Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, hoặc Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả; hoặc lìa Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, hoặc lìa Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng phải Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả; chẳng phải lìa Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng phải lìa Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng phải Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả; chẳng phải là lìa Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng phải lìa Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng nên cầu nơi Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả; chẳng nên lìa Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả mà cầu, chẳng nên lìa Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi Độc-giác, chẳng nên cầu nơi Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng nên lìa Độc-giác mà cầu, chẳng nên lìa Độc-giác hướng, Độc-giác quả mà cầu. Vì sao? Vì hoặc Độc-giác, hoặc Độc-giác hướng, Độc-giác quả; hoặc lìa Độc-giác, hoặc lìa Độc-giác hướng, Độc-giác quả; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải Độc-giác, chẳng phải Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng phải lìa Độc-giác, chẳng phải lìa Độc-giác hướng, Độc-giác quả. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải Độc-giác, chẳng phải Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng phải là lìa Độc-giác, chẳng phải lìa Độc-giác hướng, Độc-giác quả. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi Độc-giác, chẳng nên cầu nơi Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng nên lìa Độc-giác mà cầu, chẳng nên lìa Độc-giác hướng, Độc-giác quả mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi đại Bồ-tát, chẳng nên cầu nơi Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng nên lìa đại Bồ-tát mà cầu, chẳng nên lìa Tam-miệu-tam Phật-đà mà cầu. Vì sao? Vì hoặc đại Bồ-tát, hoặc Tam-miệu-tam Phật-đà; hoặc lìa đại Bồ-tát, hoặc lìa Tam-miệu-tam Phật-đà; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải đại Bồ-tát, chẳng phải Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng phải lìa đại Bồ-tát, chẳng phải lìa Tam-miệu-tam Phật-đà. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải đại Bồ-tát, chẳng phải Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng phải là lìa đại Bồ-tát, chẳng phải lìa Tam-miệu-tam Phật-đà. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi đại Bồ-tát, chẳng nên cầu nơi Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng nên lìa đại Bồ-tát mà cầu, chẳng nên lìa Tam-miệu-tam Phật-đà mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp của đại Bồ-tát, chẳng nên cầu nơi quả vị giác ngộ cao tột; chẳng nên lìa pháp của đại Bồ-tát mà cầu, chẳng nên lìa quả vị giác ngộ cao tột mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp của đại Bồ-tát, hoặc quả vị giác ngộ cao tột; hoặc lìa pháp của đại Bồ-tát, hoặc lìa quả vị giác ngộ cao tột; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp của đại Bồ-tát, chẳng phải quả vị giác ngộ cao tột; chẳng phải lìa pháp của đại Bồ-tát, chẳng phải lìa quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp của đại Bồ-tát, chẳng phải quả vị giác ngộ cao tột; chẳng phải là lìa pháp của đại Bồ-tát, chẳng phải lìa quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp của đại Bồ-tát, chẳng nên cầu nơi quả vị giác ngộ cao tột; chẳng nên lìa pháp của đại Bồ-tát mà cầu, chẳng nên lìa quả vị giác ngộ cao tột mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi Thanh-văn thừa, chẳng nên cầu nơi Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng nên lìa Thanh-văn thừa mà cầu, chẳng nên lìa Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa mà cầu. Vì sao? Vì hoặc Thanh-văn thừa, hoặc Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; hoặc lìa Thanh-văn thừa, hoặc lìa Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải Thanh-văn thừa, chẳng phải Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng phải lìa Thanh-văn thừa, chẳng phải lìa Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải Thanh-văn thừa, chẳng phải Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng phải là lìa Thanh-văn thừa, chẳng phải lìa Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi Thanh-văn thừa, chẳng nên cầu nơi Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng nên lìa Thanh-văn thừa mà cầu, chẳng nên lìa Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa mà cầu.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của sắc, chẳng nên cầu nơi chơn như của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nên lìa chơn như của sắc mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của thọ, tưởng, hành, thức mà cầu. Vì sao? Vì hoặc chơn như của sắc, hoặc chơn như của thọ, tưởng, hành, thức; hoặc lìa chơn như của sắc, hoặc lìa chơn như của thọ, tưởng, hành, thức; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của sắc, chẳng phải chơn như của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng phải lìa chơn như của sắc, chẳng phải lìa chơn như của thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của sắc, chẳng phải chơn như của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng phải lìa chơn như của sắc, chẳng phải lìa chơn như của thọ, tưởng, hành, thức. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của sắc, chẳng nên cầu nơi chơn như của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nên lìa chơn như của sắc mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của thọ, tưởng, hành, thức mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của nhãn xứ, chẳng nên cầu nơi chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng nên lìa chơn như của nhãn xứ mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà cầu. Vì sao? Vì hoặc chơn như của nhãn xứ, hoặc chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; hoặc lìa chơn như của nhãn xứ, hoặc lìa chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của nhãn xứ, chẳng phải chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng phải lìa chơn như của nhãn xứ, chẳng phải lìa chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của nhãn xứ, chẳng phải chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng phải lìa chơn như của nhãn xứ, chẳng phải lìa chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của nhãn xứ, chẳng nên cầu nơi chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng nên lìa chơn như của nhãn xứ mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của sắc xứ, chẳng nên cầu nơi chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng nên lìa chơn như của sắc xứ mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà cầu. Vì sao? Vì hoặc chơn như của sắc xứ, hoặc chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; hoặc lìa chơn như của sắc xứ, hoặc lìa chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của sắc xứ, chẳng phải chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng phải lìa chơn như của sắc xứ, chẳng phải lìa chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của sắc xứ, chẳng phải chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng phải lìa chơn như của sắc xứ, chẳng phải lìa chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của sắc xứ, chẳng nên cầu nơi chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng nên lìa chơn như của sắc xứ mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của nhãn giới, chẳng nên cầu nơi chơn như của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên lìa chơn như của nhãn giới mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc chơn như của nhãn giới, hoặc chơn như của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; hoặc lìa chơn như của nhãn giới, hoặc lìa chơn như của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của nhãn giới, chẳng phải chơn như của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; chẳng phải lìa chơn như của nhãn giới, chẳng phải lìa chơn như của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của nhãn giới, chẳng phải chơn như của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; chẳng phải lìa chơn như của nhãn giới, chẳng phải lìa chơn như của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của nhãn giới, chẳng nên cầu nơi chơn như của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên lìa chơn như của nhãn giới mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của nhĩ giới, chẳng nên cầu nơi chơn như của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên lìa chơn như của nhĩ giới mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc chơn như của nhĩ giới, hoặc chơn như của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; hoặc lìa chơn như của nhĩ giới, hoặc lìa chơn như của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của nhĩ giới, chẳng phải chơn như của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; chẳng phải lìa chơn như của nhĩ giới, chẳng phải lìa chơn như của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của nhĩ giới, chẳng phải chơn như của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; chẳng phải lìa chơn như của nhĩ giới, chẳng phải lìa chơn như của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của nhĩ giới, chẳng nên cầu nơi chơn như của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên lìa chơn như của nhĩ giới mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của tỷ giới, chẳng nên cầu nơi chơn như của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên lìa chơn như của tỷ giới mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc chơn như của tỷ giới, hoặc chơn như của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; hoặc lìa chơn như của tỷ giới, hoặc lìa chơn như của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của tỷ giới, chẳng phải chơn như của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; chẳng phải lìa chơn như của tỷ giới, chẳng phải lìa chơn như của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của tỷ giới, chẳng phải chơn như của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; chẳng phải lìa chơn như của tỷ giới, chẳng phải lìa chơn như của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của tỷ giới, chẳng nên cầu nơi chơn như của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên lìa chơn như của tỷ giới mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của thiệt giới, chẳng nên cầu nơi chơn như của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên lìa chơn như của thiệt giới mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc chơn như của thiệt giới, hoặc chơn như của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; hoặc lìa chơn như của thiệt giới, hoặc lìa chơn như của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của thiệt giới, chẳng phải chơn như của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; chẳng phải lìa chơn như của thiệt giới, chẳng phải lìa chơn như của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của thiệt giới, chẳng phải chơn như của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; chẳng phải lìa chơn như của thiệt giới, chẳng phải lìa chơn như của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của thiệt giới, chẳng nên cầu nơi chơn như của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên lìa chơn như của thiệt giới mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của thân giới, chẳng nên cầu nơi chơn như của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên lìa chơn như của thân giới mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc chơn như của thân giới, hoặc chơn như của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; hoặc lìa chơn như của thân giới, hoặc lìa chơn như của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của thân giới, chẳng phải chơn như của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; chẳng phải lìa chơn như của thân giới, chẳng phải lìa chơn như của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của thân giới, chẳng phải chơn như của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; chẳng phải lìa chơn như của thân giới, chẳng phải lìa chơn như của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của thân giới, chẳng nên cầu nơi chơn như của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên lìa chơn như của thân giới mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của ý giới, chẳng nên cầu nơi chơn như của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên lìa chơn như của ý giới mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc chơn như của ý giới, hoặc chơn như của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; hoặc lìa chơn như của ý giới, hoặc lìa chơn như của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của ý giới, chẳng phải chơn như của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; chẳng phải lìa chơn như của ý giới, chẳng phải lìa chơn như của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của ý giới, chẳng phải chơn như của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; chẳng phải lìa chơn như của ý giới, chẳng phải lìa chơn như của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của ý giới, chẳng nên cầu nơi chơn như của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên lìa chơn như của ý giới mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của địa giới, chẳng nên cầu nơi chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng nên lìa chơn như của địa giới mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà cầu. Vì sao? Vì hoặc chơn như của địa giới, hoặc chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; hoặc lìa chơn như của địa giới, hoặc lìa chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của địa giới, chẳng phải chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng phải lìa chơn như của địa giới, chẳng phải lìa chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của địa giới, chẳng phải chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng phải lìa chơn như của địa giới, chẳng phải lìa chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của địa giới, chẳng nên cầu nơi chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng nên lìa chơn như của địa giới mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của Thánh đế khổ, chẳng nên cầu nơi chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng nên lìa chơn như của Thánh đế khổ mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo mà cầu. Vì sao? Vì hoặc chơn như của Thánh đế khổ, hoặc chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc lìa chơn như của Thánh đế khổ, hoặc lìa chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của Thánh đế khổ, chẳng phải chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng phải lìa chơn như của Thánh đế khổ, chẳng phải lìa chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của Thánh đế khổ, chẳng phải chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng phải lìa chơn như của Thánh đế khổ, chẳng phải lìa chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của Thánh đế khổ, chẳng nên cầu nơi chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng nên lìa chơn như của Thánh đế khổ mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của vô minh, chẳng nên cầu nơi chơn như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng nên lìa chơn như của vô minh mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà cầu. Vì sao? Vì hoặc chơn như của vô minh, hoặc chơn như của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; hoặc lìa chơn như của vô minh, hoặc lìa chơn như của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của vô minh, chẳng phải chơn như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng phải lìa chơn như của vô minh, chẳng phải lìa chơn như của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của vô minh, chẳng phải chơn như của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng phải lìa chơn như của vô minh, chẳng phải lìa chơn như của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của vô minh, chẳng nên cầu nơi chơn như của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng nên lìa chơn như của vô minh mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của cái không nội, chẳng nên cầu nơi chơn như của cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh; chẳng nên lìa chơn như của cái không nội mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh mà cầu. Vì sao? Vì hoặc chơn như của cái không nội, hoặc chơn như của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh; hoặc lìa chơn như của cái không nội, hoặc lìa chơn như của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của cái không nội, chẳng phải chơn như của cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh; chẳng phải lìa chơn như của cái không nội, chẳng phải lìa chơn như của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của cái không nội, chẳng phải chơn như của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh; chẳng phải lìa chơn như của cái không nội, chẳng phải lìa chơn như của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của cái không nội, chẳng nên cầu nơi chơn như của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh; chẳng nên lìa chơn như của cái không nội mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của chơn như, chẳng nên cầu nơi chơn như của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; chẳng nên lìa chơn như của chơn như mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì mà cầu. Vì sao? Vì hoặc chơn như của chơn như, hoặc chơn như của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; hoặc lìa chơn như của chơn như, hoặc lìa chơn như của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của chơn như, chẳng phải chơn như của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; chẳng phải lìa chơn như của chơn như, chẳng phải lìa chơn như của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải chơn như của chơn như, chẳng phải chơn như của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; chẳng phải lìa chơn như của chơn như, chẳng phải lìa chơn như của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi chơn như của chơn như, chẳng nên cầu nơi chơn như của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; chẳng nên lìa chơn như của chơn như mà cầu, chẳng nên lìa chơn như của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì mà cầu.

 

Quyển thứ 95

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8089)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 4861)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37217)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6145)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6109)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5753)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5644)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5923)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5459)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8769)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]