Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 63: Phẩm Vô Sở Đắc 3

07/07/201511:46(Xem: 14223)
Quyển 63: Phẩm Vô Sở Đắc 3

Tập 02
Quyển 63
Phẩm Vô Sở Đắc 3
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí

 

Xá Lợi Tử! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa có sự sai khác; chẳng phải cái không của tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa có sự sai khác. Chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa, hoặc cái không của tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa, hoặc cái viễn ly của tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa, hoặc cái không tự tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì cái không nội không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì cái không nội là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì cái không nội là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì cái không nội không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh có sự sai khác; chẳng phải cái không của cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh có sự sai khác. Chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh, hoặc cái không của cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh, hoặc cái viễn ly của cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh, hoặc cái không tự tánh của cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì chơn như không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, bổn vô, thật tế không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì chơn như là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì pháp giới, pháp tánh cho đến bổn vô, thật tế là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì chơn như là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì pháp giới, pháp tánh cho đến bổn vô, thật tế là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì chơn như không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì pháp giới, pháp tánh cho đến bổn vô, thật tế không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của chơn như, pháp giới cho đến bổn vô, thật tế, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của chơn như, pháp giới cho đến bổn vô, thật tế có sự sai khác; chẳng phải cái không của chơn như, pháp giới cho đến bổn vô, thật tế có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của chơn như, pháp giới cho đến bổn vô, thật tế có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của chơn như, pháp giới cho đến bổn vô, thật tế có sự sai khác. Chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của chơn như, pháp giới cho đến bổn vô, thật tế, hoặc cái không của chơn như, pháp giới cho đến bổn vô, thật tế, hoặc cái viễn ly của chơn như, pháp giới cho đến bổn vô, thật tế, hoặc cái không tự tánh của chơn như, pháp giới cho đến bổn vô, thật tế, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì Thanh-văn thừa không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì Thanh-văn thừa là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì Thanh-văn thừa là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì Thanh-văn thừa không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của Thanh-văn thừa, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của Thanh-văn thừa có sự sai khác; chẳng phải cái không của Thanh-văn thừa có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của Thanh-văn thừa có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của Thanh-văn thừa có sự sai khác. Chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của Thanh-văn thừa, hoặc cái không của Thanh-văn thừa, hoặc cái viễn ly của Thanh-văn thừa, hoặc cái không tự tánh của Thanh-văn thừa, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì Độc-giác thừa không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì Độc-giác thừa là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì Độc-giác thừa là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì Độc-giác thừa không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của Độc-giác thừa, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của Độc-giác thừa có sự sai khác; chẳng phải cái không của Độc-giác thừa có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của Độc-giác thừa có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của Độc-giác thừa có sự sai khác. Chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của Độc-giác thừa, hoặc cái không của Độc-giác thừa, hoặc cái viễn ly của Độc-giác thừa, hoặc cái không tự tánh của Độc-giác thừa, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì Đại-thừa không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì Đại-thừa là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì Đại-thừa là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì Đại-thừa không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của Đại-thừa, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của Đại-thừa có sự sai khác; chẳng phải cái không của Đại-thừa có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của Đại-thừa có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của Đại-thừa có sự sai khác. Chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của Đại-thừa, hoặc cái không của Đại-thừa, hoặc cái viễn ly của Đại-thừa, hoặc cái không tự tánh của Đại-thừa, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại đáp lời Xá Lợi Tử: Như Tôn giả đã hỏi, vì duyên cớ gì mà nói là sắc v.v... vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên?

Xá Lợi Tử! Sắc như hư không; thọ, tưởng, hành, thức như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của sắc là không, vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, cũng vì biên giới trong đó, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì sắc vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì thọ, tưởng, hành, thức vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ như hư không; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của nhãn xứ là không, tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì nhãn xứ vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ như hư không; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của sắc xứ là không, vì tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn cũng chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì sắc xứ vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới như hư không; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không. Nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của nhãn giới là không, vì tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn cũng chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì Nhãn giới vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì Sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới như hư không; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không. Nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của nhĩ giới là không, vì tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn cũng chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì Nhĩ giới vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì Thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới như hư không; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không; tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của tỷ giới là không, vì tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn cũng chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì Tỷ giới vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì Hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới như hư không; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không; thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của thiệt giới là không, vì tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn cũng chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì Thiệt giới vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì Vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Xá Lợi Tử! Thân giới như hư không; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không; thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của thân giới là không, vì tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn cũng chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì Thân giới vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì Xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Xá Lợi Tử! Ý giới như hư không; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không. Ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của ý giới là không, vì tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn cũng chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì Ý giới vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì Pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Xá Lợi Tử! Địa giới như hư không; thủy, hỏa, phong, không, thức giới như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không; địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của địa giới là không, vì tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn cũng chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì địa giới vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì Thủy, hỏa, phong, không, thức giới vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ như hư không; Thánh đế tập, diệt, đạo như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của Thánh đế khổ là không, vì tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn cũng chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì Thánh đế khổ vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì Thánh đế tập, diệt, đạo vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Xá Lợi Tử! Vô minh như hư không; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không. Vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của vô minh là không, vì tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn cũng chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì Vô minh vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì Hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa như hư không; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không. Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không, vì tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn cũng chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì bố thí Ba-la-mật-đa vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự như hư không; bốn vô lượng, bốn định vô sắc như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của bốn tịnh lự là không, vì tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn cũng chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì bốn tịnh lự vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát như hư không; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không. Tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của tám giải thoát là không, vì tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn cũng chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì Tám giải thoát vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ như hư không; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của bốn niệm trụ là không, vì tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn cũng chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì bốn niệm trụ vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không như hư không; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không, pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của pháp môn giải thoát không là không, vì tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn cũng chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì pháp môn giải thoát không vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt như hư không; sáu phép thần thông như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không; năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của năm loại mắt là không, vì tánh của sáu phép thần thông là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn cũng chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì Năm loại mắt vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì Sáu phép thần thông vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật như hư không; bốn điều là không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không; mười lực của Phật cho đến trí nhất thiết tướng cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của mười lực Phật là không, vì tánh của bốn điều là không sợ cho đến trí nhất thiết tướng là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn cũng chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì mười lực của Phật vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì bốn điều là không sợ cho đến trí nhất thiết tướng vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất như hư không; tánh luôn luôn xả như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không; pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của pháp không quên mất là không, vì tánh của tánh luôn luôn xả là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn cũng chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì pháp không quên mất vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì tánh luôn luôn xả vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni như hư không, tất cả pháp môn Tam-ma-địa như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không; tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không, vì tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn cũng chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì tất cả pháp môn Đà-la-ni vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Xá Lợi Tử! Cái không nội như hư không; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không; cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của cái không nội là không, vì tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn cũng chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì cái không nội vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Xá Lợi Tử! Chơn như như hư không; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, bổn vô, thật tế, cứu cánh Niết-bàn như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không; chơn như cho đến cứu cánh Niết-bàn cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của chơn như là không; vì tánh của pháp giới cho đến cứu cánh Niết-bàn là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn cũng chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì chơn như vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì pháp giới cho đến cứu cánh Niết-bàn vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa như hư không; Độc-giác thừa, Đại-thừa như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không; Thanh-văn thừa, Độc-giác thừa, Đại-thừa cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của Thanh-văn thừa là không, vì tánh của Độc-giác thừa, Đại-thừa là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn cũng chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là vì Thanh-văn thừa vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì Độc-giác thừa, Đại-thừa vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại đáp lời Xá Lợi Tử: Như Tôn giả đã hỏi, vì duyên cớ gì mà nói chính sắc v.v... đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa sắc v.v... đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được ấy?

Xá Lợi Tử! Sắc và tánh của sắc là không. Vì sao? Vì trong tánh không của sắc, sắc không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; phi sắc và tánh của phi sắc là không. Vì sao? Vì trong tánh không của phi sắc, phi sắc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Thọ, tưởng, hành, thức và tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Vì sao? Vì trong tánh không của thọ, tưởng, hành, thức; thọ, tưởng, hành, thức không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Phi thọ, tưởng, hành, thức và tánh của cái phi thọ, tưởng, hành, thức là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi thọ, tưởng, hành, thức, cái phi thọ, tưởng, hành, thức không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính sắc, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa sắc, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính thọ, tưởng, hành, thức, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa thọ, tưởng, hành, thức, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ và tánh của nhãn xứ là không. Vì sao? Vì trong tánh không của nhãn xứ, nhãn xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi nhãn xứ và tánh của cái phi nhãn xứ là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi nhãn xứ, cái phi nhãn xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không. Vì sao? Vì trong tánh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và tánh của cái phi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cái phi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính nhãn xứ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa nhãn xứ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ và tánh của sắc xứ là không. Vì sao? Vì trong tánh không của sắc xứ, sắc xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi sắc xứ và tánh của cái phi sắc xứ là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi sắc xứ, cái phi sắc xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không. Vì sao? Vì trong tánh không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tánh của cái phi thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cái phi thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính sắc xứ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa sắc xứ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

 

Quyển thứ 63

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 8094)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 8185)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 5164)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37440)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6235)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6184)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5822)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5712)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5985)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5522)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]