Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 305: Phẩm Phật Mẫu 01

12/07/201511:48(Xem: 13757)
Quyển 305: Phẩm Phật Mẫu 01

Tập 06

Quyển 305

Phẩm Phật Mẫu 01

Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm

Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí

 



 

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Thí như người mẹ sanh và nuôi dưỡng các con, hoặc năm, hoặc mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, hoặc trăm, hoặc ngàn đứa. Người mẹ bị bệnh, các con đều cùng nhau hết lòng tìm cầu thuốc thang điều trị; họ nghĩ thế này: Làm sao cho mẹ ta được lành bệnh, sống lâu an lạc, thân không các khổ, tâm chẳng sầu lo. Bấy giờ, các người con tạo phương tiện, hoặc tìm  cầu phương tiện an lạc, che chở, bảo vệ cho mẹ, khônng để muỗi mòng, ruồi nhặng, rắn rít, lạnh nóng, đói khát xúc chạm gây phiền bực. Lại dùng đủ các món thượng diệu cung kính cúng dường và nghĩ: Mẹ ta thương yêu sanh ra và nuôi dưỡng chúng ta, chỉ dạy các sự việc ở đời, chúng ta không báo ơn mẹ sao được!

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng như thế, thường dùng Phật nhãn quán xem hộ niệm Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có công năng phát sanh tất cả Phật pháp cho chúng ta, có công năng chỉ bày thật tướng các pháp thế gian; tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang thuyết pháp ở mười phương thế giới, cũng dùng Phật nhãn quán xem hộ niệm Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có công năng phát sanh tất cả công đức của chư Phật, có công năng chỉ bày thật tướng các pháp thế gian; do nhân duyên này, chư Phật của chúng ta thường dùng Phật nhãn quán xem hộ niệm Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì báo trả ơn này nên không hề tạm bỏ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Bát-nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả mười địa Bồ-tát đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả Dự-lưu và quả Dự-lưu, Nhất-lai và quả Nhất-lai, Bất-hoàn và quả Bất-hoàn, A-la-hán và quả A-la-hán đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả Độc-giác và quả vị Độc-giác đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả đại Bồ-tát và các hạnh đại Bồ-tát đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà được xuất sanh.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã đắc quả vị giác ngộ cao tột, hiện đắc quả vị giác ngộ cao tột, sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy; do nhân duyên này, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa đối với các đức Như Lai có ơn đức lớn. Cho nên, chư Phật thường dùng Phật nhãn quán xem hộ niệm Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, nếu thường nghe, hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, rộng nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa thì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thường dùng Phật nhãn quán xem hộ niệm khiến thân tâm họ thường được an lạc, tu các thiện nghiệp không có các trở ngại.

Này Thiện Hiện! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, nếu đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, thường nghe, hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói, thì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong mười phương thế giới đều cùng hộ niệm, khiến đối với quả vị giác ngộ cao tột không thối chuyển.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Như đức Thế Tôn dạy, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có công năng xuất sanh chư Phật; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có công năng chỉ bày thật tướng của các pháp thế gian.

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có công năng xuất sanh chư Phật? Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có công năng chỉ rõ thật tướng các pháp thế gian? Tại sao chư Phật từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa xuất sanh? Tại sao chư Phật nói tướng thế gian?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có công năng xuất sanh năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Này Thiện Hiện! Vô lượng, vô biên công đức chư Phật như thế đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất sanh; do đạt được công đức của chư Phật như thế cho nên gọi là Phật. Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có nhiều công năng xuất sanh công đức chư Phật như thế, do đó nên nói có công năng xuất sanh chư Phật, cũng nói chư Phật từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất sanh.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có công năng chỉ rõ thật tướng của các pháp thế gian, đó là có công năng chỉ rõ thật tướng của năm uẩn thế gian. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng nói thật tướng của năm uẩn thế gian.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa của chư Phật nói rõ thật tướng năm uẩn thế gian?

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa của chư Phật đều chẳng nói rõ năm uẩn có thành, có hoại, có sanh, có diệt, có nhiễm, có tịnh, có tăng, có giảm, có nhập, có xuất; đều chẳng nói rõ năm uẩn có quá khứ, có vị lai, có hiện tại, có thiện, có bất thiện, có vô ký, có sự ràng buộc của Dục giới, có sự ràng buộc của Sắc giới, có sự ràng buộc của Vô sắc giới. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì chẳng phải các pháp không có thành có hoại, chẳng phải pháp vô tướng có thành có hoại, chẳng phải pháp vô nguyện có thành có hoại, chẳng phải pháp vô tác có thành có hoại, chẳng phải pháp vô sanh diệt có thành có hoại, chẳng phải pháp không thể tánh có thành có hoại.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa của chư Phật nói rõ thật tướng của năm uẩn thế này; tướng của năm uẩn này tức là thế gian, cho nên thế gian cũng không có tướng thành, hoại, sanh, diệt v.v…

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa có thể chứng biết hết vô lượng, vô số tâm hành sai biệt của các loại hữu tình. Nhưng trong lý của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này không có hữu tình, không có sự phát khởi của hữu tình có thể nắm bắt được; không có sắc, không có sự phát khởi của sắc có thể nắm bắt được; không có thọ, tưởng, hành, thức, không có sự phát khởi của thọ, tưởng, hành, thức có thể nắm bắt được; không có nhãn xứ, không có sự phát khởi của nhãn xứ có thể nắm bắt được; không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, không có sự phát khởi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể nắm bắt được; không có sắc xứ, không có sự phát khởi của sắc sứ có thể nắm bắt được; không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, không có sự phát khởi của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể nắm bắt được; không có nhãn giới, không có sự phát khởi của nhãn giới có thể nắm bắt được; không có sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, không có sự phát khởi của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có thể nắm bắt được; không có nhĩ giới, không có sự phát khởi của nhĩ giới có thể nắm bắt được; không có thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, không có sự phát khởi của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra có thể nắm bắt được; không có tỷ giới, không có sự phát khởi của tỷ giới có thể nắm bắt được; không có hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, không có sự phát khởi của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra có thể nắm bắt được; không có thiệt giới, không có sự phát khởi của thiệt giới có thể nắm bắt được; không có vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, không có sự phát khởi của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra có thể nắm bắt được; không có thân giới, không có sự phát khởi của thân giới có thể nắm bắt được; không có xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, không có sự phát khởi của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra có thể nắm bắt được; không có ý giới, không có sự phát khởi của ý giới có thể nắm bắt được; không có pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, không có sự phát khởi của pháp giới cho đến ý xúc làm suyên sanh ra các thọ có thể nắm bắt được; không có địa giới, không có sự phát khởi của địa giới có thể nắm bắt được; không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới, không có sự phát khởi của thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể nắm bắt được; không có vô minh, không có sự phát khởi của vô minh có thể nắm bắt được; không có hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, không có sự phát khởi của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não có thể nắm bắt được; không có bố thí Ba-la-mật-đa, không có sự phát khởi của bố thí Ba-la-mật-đa có thể nắm bắt được; không có tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không có sự phát khởi của tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể nắm bắt được; không có pháp không nội, không có sự phát khởi của pháp không nội có thể nắm bắt được; không có pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, không có sự phát khởi của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh có thể nắm bắt được; không có chơn như, không có sự phát khởi của chơn như có thể nắm bắt được; không có pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, không có sự phát khởi của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì có thể nắm bắt được; không có Thánh đế khổ, không có sự phát khởi của Thánh đế khổ có thể nắm bắt được; không có Thánh đế tập, diệt, đạo, không có sự phát khởi của Thánh đế tập, diệt, đạo có thể nắm bắt được; không có bốn tịnh lự, không có sự phát khởi của bốn tịnh lự có thể nắm bắt được; không có bốn vô lượng, bốn định vô sắc, không có sự phát khởi của bốn vô lượng, bốn định vô sắc có thể nắm bắt được; không có tám giải thoát, không có sự phát khởi của tám giải thoát có thể nắm bắt được; không có tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, không có sự phát khởi của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ có thể nắm bắt được; không có bốn niệm trụ, không có sự phát khởi của bốn niệm trụ có thể nắm bắt được; không có bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, không có sự phát khởi của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo có thể nắm bắt được; không có pháp môn giải thoát không, không có sự phát khởi của pháp môn giải thoát không có thể nắm bắt được; không có pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, không có sự phát khởi của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện có thể nắm bắt được; không có mười địa Bồ-tát, không có sự phát khởi của mười địa Bồ-tát có thể nắm bắt được; không có năm loại mắt, không có sự phát khởi của năm loại mắt có thể nắm bắt được; không có sáu phép thần thông, không có sự phát khởi của sáu phép thần thông có thể nắm bắt được; không có mười lực Phật, không có sự phát khởi của mười lực Phật có thể nắm bắt được; không có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, không có sự phát khởi của bốn điều không sợ cho đếm mười tám pháp Phật bất cộng có thể nắm bắt được; không có pháp không quên mất, không có sự phát khởi của pháp không quên mất có thể nắm bắt được; không có tánh luôn luôn xả, không có sự phát khởi của tánh luôn luôn xả có thể nắm bắt được; không có trí nhất thiết, không có sự phát khởi của trí nhất thiết có thể nắm bắt được; không có trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, không có sự phát khởi của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể nắm bắt được; không có tất cả pháp môn Đà-la-ni, không có sự phát khởi của tất cả pháp môn Đà-la-ni có thể nắm bắt được; không có tất cả pháp môn Tam-ma-địa, không có sự phát khởi của tất cả pháp môn Tam-ma-địa có thể nắm bắt được; không có quả Dự-lưu, không có sự phát khởi của quả Dự-lưu có thể nắm bắt được; không có quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, không có sự phát khởi của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể nắm bắt được; không có quả vị Độc-giác, không có sự phát khởi của quả vị Độc-giác có thể nắm bắt được; không có tất cả hạnh đại Bồ-tát, không có sự phát khởi của tất cả hạnh đại Bồ-tát có thể nắm bắt được; không có có quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, không có sự phát khởi của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa của chư Phật nói rõ thật tướng thế gian như thế.

Này Thiện Hiện! Nhưng trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng chỉ rõ sắc, chẳng chỉ rõ thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có sắc, thọ, tưởng, hành, thức có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ nhãn xứ; chẳng chỉ rõ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có nhãn xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ sắc xứ; chẳng chỉ rõ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có sắc xứ, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ nhãn giới; chẳng chỉ rõ sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ nhĩ giới; chẳng chỉ rõ thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ tỷ giới; chẳng chỉ rõ hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ thiệt giới; chẳng chỉ rõ vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ thân giới; chẳng chỉ rõ xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ ý giới; chẳng chỉ rõ pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ địa giới, chẳng chỉ rõ thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có địa giới, thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ vô minh; chẳng chỉ rõ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ bố thí Ba-la-mật-đa; chẳng chỉ rõ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ pháp không nội; chẳng chỉ rõ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có pháp không nội cho đến vô tánh tự tánh của không có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ chơn như; chẳng chỉ rõ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có chơn như cho đến bất tư nghì giới có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ Thánh đế khổ, chẳng chỉ rõ Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có Thánh đế khổ cho đến Thánh đế tập, diệt, đạo có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ bốn tịnh lự; chẳng chỉ rõ bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ tám giải thoát; chẳng chỉ rõ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ bốn niệm trụ; chẳng chỉ rõ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ pháp môn giải thoát không; chẳng chỉ rõ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ mười địa Bồ-tát. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có mười địa Bồ-tát có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ năm loại mắt; chẳng chỉ rõ sáu phép thần thông. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có năm loại mắt, sáu phép thần thông có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ mười lực Phật; chẳng chỉ rõ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ pháp không quên mất; chẳng chỉ rõ tánh luôn luôn xả. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ trí nhất thiết; chẳng chỉ rõ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ tất cả pháp môn Đà-la-ni; chẳng chỉ rõ tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ quả Dự-lưu, chẳng chỉ rõ quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có quả Dự-lưu, quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ quả vị Độc-giác. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có quả vị Độc-giác có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ tất cả hạnh đại Bồ-tát. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có tất cả hạnh đại Bồ-tát có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể chỉ rõ được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả hữu tình phát biểu ra lời nói là hoặc có sắc, hoặc không có sắc, hoặc có tưởng, hoặc không có tưởng, hoặc chẳng phải có tưởng, chẳng phải không có tưởng, hoặc thế giới này, hoặc tất cả thế giới khác trong mười phương. Các hữu tình ấy, tâm an tịnh, hoặc tâm tán loạn, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa đều biết như thật.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết như thật tâm an tịnh, tâm tán loạn của các loại hữu tình ấy?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác do pháp tánh nên biết như thật tâm an tịnh, tâm tán loạn của các loại hữu tình ấy?

Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác do pháp tánh nên biết như thật tâm an tịnh, tâm tán loạn của các loại hữu tình ấy?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết như thật trong pháp tánh, pháp tánh còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có tâm an tịnh, tâm tán loạn.

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy, do pháp tánh nên như thật biết tâm an tịnh, tâm tán loạn của các loại hữu tình.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác do tận, do ly nhiễm, do diệt, do đoạn, do tịch tịnh, do viễn ly nên như thật biết tâm an tịnh, tâm tán loạn của các loại hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác do tận, do ly nhiễm, do diệt, do đoạn, do tịch tịnh, do viễn ly nên như thật biết tâm an tịnh, tâm tán loạn của các loại hữu tình?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tận, ly nhiễm, diệt, đoạn, tịch tịnh, viễn ly; do tánh của tận v.v... còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có tâm an tịnh, tâm tán loạn!

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy, nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, do tận v.v... nên như thật biết tâm an tịnh, tâm tán loạn của các loại hữu tình ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết các loại hữu tình ấy có tâm tham, tâm lìa tham; có tâm sân, tâm lìa sân; có tâm si, tâm lìa si.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết các loại hữu tình ấy có tâm tham, tâm lìa tham; có tâm sân, tâm lìa sân; có tâm si, tâm lìa si?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết các loại hữu tình ấy có tánh như thật của tâm tham, sân, si, chẳng phải có tâm tham, sân, si, chẳng phải lìa tâm tham, sân, si. Vì sao? Vì trong tánh như thật, tâm, tâm sở pháp còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có tâm tham, sân, si, tâm lìa tham, sân, si.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tánh như thật của tâm lìa tham, sân, si của các loại hữu tình ấy, chứ chẳng phải có tâm tham, sân, si, chẳng phải lìa tâm tham, sân, si. Vì sao? Vì trong tánh như thật, tâm, tâm sở pháp còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có tâm tham, sân, si, tâm lìa tham, sân, si.

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết có tâm tham, tâm lìa tham, có tâm sân, tâm lìa sân, có tâm si, tâm lìa si của các loại hữu tình ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, như thật biết tâm có tham, sân, si, chẳng phải tâm có tham, sân, si, chẳng phải lìa tâm tham, sân, si của các loại hữu tình ấy. Vì sao? Vì hai loại tâm ấy chẳng hòa hợp.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm lìa tham, sân, si, tâm chẳng phải có tham, sân, si, tâm chẳng phải lìa tham, sân, si của các loại hữu tình ấy. Vì sao? Vì hai loại tâm ấy chẳng hòa hợp.

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm có tham, tâm lìa tham, tâm có sân, tâm lìa sân, tâm có si, tâm lìa si của các loại hữu tình ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm rộng của các hữu tình ấy.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm rộng của các loại hữu tình ấy?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm rộng của các loại hữu tình ấy, không rộng không hẹp, không tăng không giảm, không đến không đi, vì lìa tâm tánh nên chẳng phải rộng, chẳng phải hẹp, chẳng phải tăng chẳng phải giảm, chẳng phải đi, chẳng phải đến. Vì sao? Vì tự tánh của tâm không sở hữu, thì cái gì rộng, cái gì hẹp, cái gì tăng, cái gì giảm, cái gì đi, cái gì đến!

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm rộng của các loại hữu tình ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm lớn của các loại hữu tình ấy.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm lớn của các loại hữu tình ấy?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm lớn của các loại hữu tình ấy không đi, không đến, không sanh, không diệt, không trụ, không dị, không đại, không tiểu. Vì sao? Vì tự tánh của tâm không sở hữu, chẳng phải đi, chẳng phải đến, chẳng phải sanh, chẳng phải diệt, chẳng phải trụ, chẳng phải dị, chẳng phải đại, chẳng phải tiểu.

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm lớn của các loại hữu tình ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm vô lượng của các loại hữu tình ấy.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm vô lượng của các loại hữu tình ấy?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm vô lượng của các loại hữu tình ấy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, chẳng phải đi, chẳng phải chẳng đi. Vì sao? Vì tánh của tâm vô lượng, vô lậu, vô y, như vậy đâu có thể nói là có trụ, chẳng trụ, có đi, chẳng đi.

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm vô lượng của các loại hữu tình ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm vô kiến, vô đối của các loại hữu tình ấy.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm vô kiến, vô đối của các loại hữu tình ấy?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm vô kiến, vô đối của các loại hữu tình ấy đều không có tướng của tâm. Vì sao? Vì tất cả tự tướng của tâm là không.

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm vô kiến, vô đối của các loại hữu tình ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm vô sắc không thể thấy của các loại hữu tình ấy.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm vô sắc chẳng thể thấy của các loại hữu tình ấy?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm vô sắc chẳng thể thấy của các loại hữu tình ấy mà năm loại mắt của chư Phật chẳng thể thấy được. Vì sao? Vì tánh của tất cả tâm là không.

Này Thiện Hiện! Như vậy, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm vô sắc chẳng thể thấy của các loại hữu tình ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm, tâm sở pháp của các loại hữu tình khác, hoặc hiện hoặc ẩn, hoặc co hoặc duỗi.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm, tâm sở pháp của các loại hữu tình khác hoặc hiện, hoặc ẩn, hoặc co, hoặc duỗi?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm, tâm sở pháp hiện, ẩn, co, duỗi của các loại hữu tình khác đều nương sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà sanh khởi.

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm, tâm sở pháp của các loại hữu tình khác hoặc hiện, hoặc ẩn, hoặc co, hoặc duỗi, có nghĩa là chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm, tâm sở pháp hiện, ẩn, co, duỗi của các loại hữu tình khác hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp ngã và thế gian là thường và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp ngã và thế gian là vô thường và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp ngã và thế gian vừa thường vừa vô thường, và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp ngã và thế gian là chẳng phải thường, chẳng phải vô thường và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp ngã và thế gian hữu biên và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp ngã và thế gian vô biên và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp ngã và thế gian vừa hữu biên, vừa vô biên và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp ngã và thế gian chẳng phải hữu biên, chẳng phải vô biên và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp mạng tức là thân và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp mạng khác thân và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp Như Lai sau khi tịch diệt, hữu và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp Như Lai sau khi tịch diệt, phi hữu và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp Như Lai sau khi tịch diệt, vừa hữu, vừa phi hữu và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp Như Lai sau khi tịch diệt phi hữu, phi phi hữu và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm.

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm, tâm sở pháp của các loại hữu tình khác hoặc hiện, hoặc ẩn, hoặc co, hoặc duỗi.

 

Quyển thứ 305

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 8094)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 8185)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 5164)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37440)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6235)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6183)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5822)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5712)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5985)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5522)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]