Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một nhà Văn Hóa đa tài khả kính

19/04/201607:25(Xem: 6858)
Một nhà Văn Hóa đa tài khả kính

HT_Huyen_Ton (64)

Hòa Thượng Thích Huyền Tôn

một nhà Văn Hóa đa tài khả kính

Nói đến Phật Giáo Việt Nam tại Úc Châu này là phải nói đến các Thầy Tắc Phước, Thầy Huyền Tôn và sau đó đến các Thầy Như Huệ, Thầy Bảo Lạc, Thầy Quảng Ba, Thầy Nhật Tân, Thầy Tâm Phương.... cùng một số nhiều Thầy khác nữa ở khắp các tiểu bang ở Úc Châu này.

Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, thuở còn thiếu thời, tôi không có được cơ hội sinh hoạt với gia đình Phật Tử, nhưng nặng sinh hoạt với Hướng Đạo VN từ sói con, lên thiếu, lên tráng sinh... và sau khi ra trường đi làm việc mới có cơ hội vào làm việc chung với các anh em Gia đình Thanh Niên Phật Tử tại Đà Nẵng, Việt Nam trong vai trò cố vấn...

Từ ngày vượt biển rời Việt Nam, lên đường tị nạn tìm Tự Do năm 1979, đến Bidong gặp được Thầy Huyền Tôn (lúc đó Ngài còn là Thượng Tọa).

Thầy trò có nhiều tâm sự và mới biết được Thầy là bạn tâm tình của những vị Thầy khả kính của bản thân tôi như Thầy Thiện Minh (Tổng Vụ Trưởng Thanh Niên Phật Tử), Thầy Mãn Giác (Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Văn Hóa Giáo Dục) là những vị Thầy mà tôi đã có cơ may được gặp gỡ kính phục cùng làm việc chung và rất nhiều tương đắc...

Từ ở đảo Bidong, buồn lo bi đát đó, Thầy Huyền Tôn với tôi đã có nhiều kỷ niệm vui buồn khó quên trong đời... người tị nạn, khi mới chân ướt, chân ráo đến đảo! Hai kỷ niệm khó quên này là mỗi khi Thầy có được phụ cấp tiền bạc ở nước ngoài gửi đến giúp Thầy, Thầy “bố thí” cho các Phật tử trên đảo, trong đó có tôi... và vào các ngày mồng một, mười lăm, Thầy Huyền Tôn cùng với Thầy Nguyên Hạnh (bây giờ là Viện chủ Chùa Việt Nam tại Houston, Texas, Hoa Kỳ) đi lên khu G hái rau muống và các rau cỏ khác về ngay văn phòng tôi ở khu C tặng cho “đệ tử” để nhớ ngày “ăn chay” cầu Trời Phật phù hộ cho mau chóng định cư!

Sau đó, Thầy Nguyên Hạnh đi Mỹ do Thầy Mãn Giác bảo lãnh, còn Thầy Huyền Tôn và tôi cùng đi Úc dưới dạng “Tị nạn nhân đạo”!

Một cái may mắn khác trong đời tôi là sau khi qua trại chuyển tiếp để chờ ngày lên đường đi Úc thì hai Thầy trò cũng được sắp xếp một chuyến bay sang định cư tại Melbourne cùng với 106 người VN tị nạn khác!

Nói đến chuyến bay này vào Midway Hostel thì đây cũng là những kỷ niệm khó quên cho cả "108 anh hùng Lương Sơn Bạc" như nhiều anh chị em đã suy nghĩ lúc đó! Bây giờ thì có nhiều người đã mất, nhiều người khác đang từ "tay trắng dựng nên sự nghiệp" thành công trong giới thương trường, như anh Bình, anh Nhân (Phở Dzũng Tân Định), hoặc gia đình Anh Chị Ba Lẹ (Giò Chả Ba Lẹ Footscray)... Riêng cá nhân tôi thì vẫn trôi nổi dập dình trong nghề làm báo từ đó đến hôm nay (đã qua hơn 31 năm rồi). Lúc vào tháng mười mùa Đông giá lạnh ở Melbourne và ai ai cũng tê cóng chịu không nổi cái giá buốt lạnh này! Lúc này là thời gian nhàn rỗi và sung sướng nhất của người tị nạn VN như chúng tôi, sau những ngày dài mòn mỏi chờ đợi định cư ở đệ tam quốc gia. Bây giờ vào ở Hostel, cơm nước có Hostel lo, nhà phòng có người dọn dẹp sạch sẽ, chỉ lo học Anh văn và tư tưởng sẵn sàng chuẩn bị đối phó với những vấn đề nhân sinh mới của tương lai chờ đợi trước mặt!

Riêng Thầy Huyền Tôn thì hàng tuần hoặc hàng ngày gặp Thầy Tắc Phước (đang ở tại nhà Phật Giáo ở Kew) để bàn bạc, thảo luận xây dựng một Giáo Hội Phật Giáo VN tại Úc Châu! Thầy Phước Huệ đến trước đó vài tháng và đã có nhiều liên lạc với Hội Phật Giáo Úc Châu...!

Lúc đó tôi cũng có phần rảnh rỗi nên theo Thầy Huyền Tôn và phụ hợp cùng với hai Thầy lo những công việc tương lai cho Đạo Pháp và Dân tộc như việc soạn thảo Hiến chương Giáo Hội. Vấn đề ưu tư đầu tiên là phải nghĩ đến cách lập chùa và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Hiến chương Giáo Hội Phật Giáo VN Úc Châu-Tân Tây Lan ra đời sau đó.

Hai chùa đầu tiên của Giáo Hội là Chùa Phước Huệ ở NSW (do Thầy Tắc Phước Trụ Trì) và Chùa Đại Bi Quan Âm ở Victoria (do Thầy Huyền Tôn phụ trách) mà sau này được đổi thành Chùa Quang Minh, một ngôi chùa chung của Giáo Hội, nhiều vị Thầy đã được cử về làm trụ trì, trong đó có Thầy Tâm Phương, Thầy Như Định, Thầy Minh Trí và bây giờ là Thầy Phước Tấn.

Về câu chuyện lập chùa ở Victoria thật sự có nhiều "nhiêu khê", một số Phật tử ý thức được trách nhiệm với Phật Giáo VN đã nhảy vào gánh vác công việc lập chùa của Giáo Hội, nhưng rồi cuối cùng Thầy Tắc Phước phải trông coi luôn cả hai chùa: Phước Huệ (ở NSW) và Quang Minh (ở Victoria).

Thầy Huyền Tôn cùng một số Phật tử ở Victoria cùng nhau xây dựng lên Bảo Vương Tự đầu tiên tại Essendon rồi sau đó đến Delahey và sau cùng tọa lạc tại Ardeer West Sunshine cho đến hôm nay. Với cơ sở mới này, trên đồi cao nhìn qua thung lũng và nhìn về thành phố Melbourne trông rất đẹp mắt và hữu tình. Nhưng để biến thành một ngôi chùa thì quả còn quá nhiều việc, nhiều điều... cần xây dựng! Đây âu cũng là phần thưởng đặc biệt mà ơn chư Phật mười phương đã ban cho vị Cao Tăng suốt cả đời tận tụy lao đao phục vụ cho Đạo Pháp và Dân Tộc!

Nhân kỷ niệm hơn 40 năm (1975-2015) đóng góp công sức của người VN tị nạn đối với Đạo Pháp và Dân tộc qua đạo hạnh và sự phục vụ tận tụy không ngừng nghỉ của riêng Thầy Huyền Tôn cho quê hương cũ (VN trước 1975), những ngày còn tị nạn ở đảo Bidong và cho quê hương mới (ở Úc Đại Lợi sau năm 1980 kể từ ngày Thầy định cư ở Melbourne).

Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Châu hiện này, gồm tất cả Tăng Ni Phật Tử của hơn 40 tự viện tại Úc Châu và Tân Tây Lan, đã cùng tôn cử  Hòa Thượng Huyền Tôn vào chức vị Tăng Giáo Trưởng, một vị trí lãnh đạo tinh thần cao nhất của giới Phật tử VN tại Úc Châu.

Viết về Thầy, viết cho Thầy Huyền tôn, mà không viết về những huyền thoại của Thầy quả là một thiếu sót, nên từ đó bằng mọi cách và con tim mà cá nhân “khách quan” của tôi, đặc biệt riêng tôi tự bắt mình phải nhận chân và viết, xin quý vị đọc đến đây, thông cảm, sự thật nếu không sự thật, và trên tất cả là xin bậc Thầy mà suốt cả đời tôi được hân hạnh yêu thương và kính trọng Ngài như một Bậc Thầy thực sự trên thế gian này (vì là thế gian nên nhiều người không được ngay), có thể lỗi tại Ông Trời sinh ra họ vậy, chứ họ đâu có muốn vậy, chẳng ai mà muốn mình không hay? không giỏi? không tốt? không đẹp? không vĩ đại? có được để được yêu thương và kính trọng!

Thầy là một người đức độ, cương trực, ăn ngay nói thẳng  theo lương tri của Thầy, dù lời nói đó khiến cho đối tượng không bằng lòng, nhưng Thầy vẫn nói thẳng với họ...

Bạch Thầy, con nhớ lúc Thầy còn ở chung trong Midway Hostel khi mới sang Melbourne, sau khi lãnh được trợ cấp, việc đầu tiên là Thầy dùng tiền đó để mua ngay một kính thiên văn để về coi các vì sao trên trời... để biết phận số của nước non mình sẽ về đâu. Từ đó, ai ai cũng biết Thầy là  "Thầy của các Bậc Thầy", một vị Sư nhìn trời biết thiên văn, nhìn đất biết địa lý... và dĩ nhiên nhìn người... thì cũng biết được kẻ đó là gian hay ngay? Điều đó có đúng không thì xin quý đồng hương Phật tử hỏi thẳng Ngài, bản thân tôi, dù là một nhà báo và rất gần Thầy mà chưa dám “phỏng vấn” trực tiếp với Thầy về vấn đề " thiên cơ bất khả lậu này" Dù tôi là người cũng "nổi danh"  là người thẳng thắn!

Có phải đây là điều tôi học được ở Thầy, hoặc là Trời cũng cho tôi nguyên thủy... nhiễm cái “nghiệp” đó, chứ không phải vì gần... Thầy nên bị lây lan học lóm được của Thầy ?  Và chính tôi, tôi cũng chẳng biết được! suy tìm ra được!!!

Ngoài ra, cũng trong đám 106 anh hùng Lương Sơn Bạc qua một chuyến với Thầy và tôi... cũng nói với tôi rằng Thầy ngoài chuyện tu hành theo Phật, Thầy còn là một “Sư phụ võ công cao thủ” của môn Phái Thiếu Lâm ?

Với quá nhiều công sức của mọi Phật tử Việt Nam đã cố gắng bỏ ra ở trên khắp các tiểu bang Úc Đại Lợi từ NSW, Victoria, Qld, Nam Úc, Bắc Úc, Tây Úc... với sự dắt dìu, lèo lái của quý Thầy ở khắp Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan, quả là khó khăn, vô cùng khó khăn mà chính Thầy Nguyên Tạng, Trụ Trì Tu Viện Quảng Đức, đã mộc mạc so sánh “Chư Tôn Đức xây chùa ở hải ngoại này cũng giống như trồng Hoa Sen trên Tuyết (!!!)” và công việc đến đâu, như thế nào, phần lớn đều nhờ vào tấm lòng và công sức của người tín đồ hộ trì Tam Bảo vậy.

Và để kết luận về tư tưởng của cá nhân tôi đối với Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn, là qua hơn 36 năm sống với Thầy ở Melbourne (còn dài hơn là thời gian tôi sống với Mẹ Việt Nam, chỉ mới 35 năm thôi! Và qua những lần gặp gỡ, gồm luôn cả ngày tù tội và mòn mỏi ở Bidong với Thầy, ở Hostel, ở Melbourne này, thì Hòa Thượng quả là một bậc Sư Phụ của cá nhân tôi, của nhiều người VN tị nạn khác nữa (người tị nạn không có vấn đề kỳ thị tôn giáo!).  HT Huyền Tôn là một nhà Sư, nhà báo, nhà văn, nhà thơ và là một dịch giả. Quả đúng là một Nhà Văn Hóa đa tài khả kính của quê hương Việt Nam, của Dân tộc Việt Nam, của Tổ Quốc VN vậy!

Nam Mô A Di Đà Phật
Viết tại Melbourne, Tháng Tư Đen Lưu Vong lần 41 năm 2016
Long Quân Hồ Công Lộ
Chủ bút Nhân Quyền

                         

                         

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 8087)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 8176)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 5122)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37407)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6223)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6179)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5812)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5700)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5979)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5515)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]