Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hành Trạng của Trưởng Lão HT Thích Huyền Tôn

18/02/201612:41(Xem: 8359)
Hành Trạng của Trưởng Lão HT Thích Huyền Tôn






Hành Trạng

của Trưởng Lão Hòa Thượng

Tăng Giáo Trưởng Thích Huyền Tôn

Bài viết của TT Thích Nguyên Tạng

Do Đạo hữu Tường Dinh (Đài Radio 974 Úc Châu diễn đọc)




 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính bạch Trưởng Lão Hòa Thượng Tăng Giáo Trưởng,


Hôm nay mùng 4 Tết Bính Thân 2016, Phật lịch 2560, hàng đệ tử Tăng Ni  chúng con tại tiểu bang Victoria tề tựu về Lăng Nghiêm Bảo Vương Tự này để hầu thăm, đảnh lễ và mừng Khánh tuế đại thọ 89 tuổi đời, 82 đạo lạp và 68 hạ lạp của Ngài. Chúng con cầu Phật từ bi gia hộ cho Hòa Thượng pháp thể khinh an, thọ mạng miên trường, giới hạnh trang nghiêm, huệ đăng thường chiếu để hộ trì Chánh Pháp, phổ độ chúng sanh và dìu dắt hàng đệ tử xuất gia chúng con trên bước đường tu tập và hành đạo.



Mung Khanh Tue HT Bao Vuong (49)
(kính mời xem hình ảnh)

Nhân dịp này, con xin lược sơ qua một chút hành trạng của Ngài để đại chúng gần xa biết đôi nét về Ngài. Hòa Thượng Đạo hiệu Thích Huyền Tôn, pháp danh Như Kế, pháp tự Giải Tích, sinh năm Mậu Thìn (1928)  tại Quảng Ngãi, Việt Nam - Xuất gia năm Giáp Tuất (1934) - Thọ Sa Di năm Tân Tỵ (1941) - Thọ Cụ Túc Giới năm Đinh Hợi (1947) - Từng theo học các Phật học đường Tây Thiên, Viên Giác vào năm Mậu Tuất (1958) - Tốt nghiệp Cử Nhân Hán Học thuộc Bộ Giáo Dục Quốc Gia VN năm Canh Tý (1960) - Giáo Sư Phật học tại các Phật học đường Bảo Lâm (Mỹ Khê, Quảng Ngãi), Phật học đường Kim Liên (Tịnh Giang, Quảng Ngãi), Phật học đường Quang Minh (Sài Gòn) - Giáo Sư Việt văn Trường Trung Học Bồ Đề, Sài Gòn - Quyền Chánh Đại Diện Phật Giáo Tỉnh Gia Định (1967-1972) - Định cư tại thành phố Melbourne, Úc Đại Lợi từ năm Canh Thân (1980), sáng lập và Trụ Trì Chùa Bảo Vương cho đến nay - Ngài là sáng lập viên Giáo Hội Phật Giáo VNTN tại Victoria, năm Tân Dậu (1981) - Tiếp đó, Ngài cùng Chư Tôn Đức thành lập Giáo Hội Phật Giáo VNTN Úc Châu-Tân Tây Lan, năm Giáp Tý (1983) - Chủ Bút tờ báo Phật Giáo VN Úc Châu từ 1984 đến 1989 - Phó Viện Trưởng Viện Hoằng Đạo (1983-1992) - Hiện là Tăng Giáo Trưởng Hội Đồng Giáo Phẩm thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại UĐL-TTL từ 1999 đến nay.


Trong thời gian phụ trách giảng dạy môn Việt văn các Trường Trung Học Bồ Đề, Sài Gòn, Hòa Thượng đã dành nhiều thời gian để viết truyện, viết báo đăng trên các tờ báo tại Sàigòn: Báo Trắng Đen, Báo Tin Sớm, Báo Tiền Tuyến, Báo Thông Tin, Đặc San Hoằng Pháp của Viện Hóa Đạo v.v… qua bút hiệu Hạo Gia và Lĩnh Nam.


Định cư tại Úc Châu năm 1980 sau chuyến vượt biên gian khổ, Hòa Thượng đã dành thời gian để nghiên cứu và viết bộ sách "5000 năm Việt Lịch", một tài liệu có một không hai trên văn đàn Việt Nam, Hòa Thượng là người thích lịch sử, đặc biệt là thích ghi chú và gìn giữ tư liệu về lịch sử Việt, trong đó Ngài cố gắng cổ võ cho người Việt nên sử dụng và duy trì Việt lịch để con rồng cháu tiên VN biết rõ cũng như tự hào về gốc rễ của mình. Ví dụ năm nay Tây lịch 2016 thì phải biết rõ Việt lịch của chúng ta là 4895. Trong bộ sách đồ sộ và chi tiết này của Hòa Thượng, ghi chép và đối chiếu chiều dọc và chiều ngang của chiều dài lịch sử VN từ thời Vân Lang, Âu Lạc, Hồng Bàng, cho đến thời Hùng Vương, Bà Trưng, Ngô Quyền, rồi Đinh, Lê, Lý Trần...

Ví dụ: Năm thứ nhất Việt Lịch là đời Vua Kinh Dương Vương, năm Giáp Tuất, trước Phật ra đời là 2255 năm, từ đó Hòa Thượng tính đến năm 5000 (Việt lịch) năm đó là 2121 (Tây lịch), Tân Tỵ, Phật đản sẽ là 2745, Phật lịch là 2665.

Đây là bộ lịch 5000 năm của lịch sử Việt Nam cũng là của PG thế giới, ai có duyên đọc được sẽ làu thông hết mọi chi tiết lịch của mọi thời đại một cách chính xác, chẳng hạn:

- Đức Phật đản sinh năm 624 trước TL thì Việt Lịch là 2255, âm lịch: Đinh Dậu, thời vua Hùng Vương tại VN, và thời Vua Tương Dương nhà Châu 28 bên Tàu.

- Đức Phật nhập Niết Bàn năm 80 tuổi, là 544 trước TL, âm lịch: Bính Thìn, Việt lịch 2335, năm đó Lão Tử 27 tuổi, Đức Không Tử mới lên 6 tuổi,  đang là thời Vua Linh Dương nhà Chu thứ 27,

- Sau 16 năm dài gian khổ thỉnh kinh tại Ấn Độ Pháp Sư Huyền Trang trở về Trường An là năm Lục Tổ Huệ Năng lên 8 tuổi, đó là năm 645, Việt lịch 3524, âm lịch: Ất Tỵ.

Bản thân riêng con là người nghiên cứu và viết về Phật Giáo Thế Giới (xem sách), con rất cảm động và vui sướng khi đọc được những thông tin này, vì con biết Hòa Thượng phải mất nhiều thời gian để thức khuya dậy sớm, tìm kiếm tài liệu, đọc, tra cứu chi tiết từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau để đúc kết thành dữ kiện lịch sử như thế. Quả thật đây là một tài liệu vô giá, sẽ giúp cho người đời sau rất nhiều, khi cần là có ngay, không mất công lật tự điển hoặc hàng chục tập sách để tra cứu nữa, quả thật công đức đóng góp vào nền văn hóa Phật Giáo VN của Hòa Thượng không thể nghĩ bàn được.

Các bản Kinh mà Đức Tăng Giáo Trưởng đã truyền đạt cho đời gồm có:

  - Chư Kinh Mật Giáo. HT.Thích Huyền Tôn dịch

  - Kinh Vu Lan Bồn. HT Thích Huyền Tôn dịch 

 -  Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân. HT.Thích Huyền Tôn dịch

  - Kinh Hiền Kiếp Thiên Phật Danh. HT.Thích Huyền Tôn dịch

  - Kinh Bát Đại Nhơn Giác. HT.Thích Huyền Tôn dịch 

-  32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Phật.  HT.Thích Huyền Tôn dịch

  - Phương Pháp cứu độ Trung Ấm Thân . HT.Thích Huyền Tôn

  - Du Già Diệm Khẩu Thí Thực Khoa Nghi. HT. Thích Huyền Tôn dịch (xin mời xem tác phẩm của HT)

 

HT Huyen Ton-TT Nguyen Tang-2
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn & tác giả Thích Nguyên Tạng
(hình chụp năm 2010)





Đặc biệt tác phẩm " Du Già Diệm Khẩu Thí Thực Khoa Nghi", ấn hành đầu tiên năm 2007có thể nói đây là bản Việt dịch đầu tiên đầy đủ về khoa Chẩn tế thí thực cô hồn, và cũng là một bản dịch để đời của HT Tăng Giáo Trưởng, vì văn phong của bản kinh đã trác tuyệt, mà bút pháp của Hòa Thượng còn cực kỳ điêu luyện, đã làm cho người đọc không còn có cảm giác đây là bản dịch từ tiếng nước ngoài. Ví dụ như đoạn văn tán sau 12 câu thỉnh: "Tự tùng khoáng kiếp, trực chí kim sanh, thích nghiệp chướng dĩ tiêu dung, tuyết tội khiên nhi thanh tịnh; hoạch thang dõng phất, biến thành bát đức chi liên trì, lô diệm giao huy, hóa tác thất trân chi hương cái. Kiếm thọ giai vi ngọc thọ, đao sơn tận tác bảo sơn, biến giới thiết sàng, hiện Bồ đề chi pháp tọa; mãn phủ đồng trấp, hóa cam lồ chi đề hồ, vãng tích trái chủ chi tương phùng, câu mong giải thoát. Tích kiếp oan gia chi cộng hội, ngục chúa hưng từ, minh quang trì thiện."


Hòa Thượng dịch giả đã chuyển ngữ một cách tài tình như sau: "Kính nguyện từ kiếp xa xưa, thẳng đến ngày nay, xả nghiệp chướng để thong dong, rửa tội khiên nên thanh tịnh. Nước đồng sôi nóng, biến thành "tám đức" mát ao sen. Lửa lò nung nấu, hóa nên lộng thơm bảy báu. Rừng kiếm núi đao, đã biến thành " bảo sơn, rừng ngọc". Giường sắt khắp nơi, bỗng hóa hiện " Bồ đề pháp tọa", nước đồng sôi tung rải khắp nơi, hóa nên "sửa đề hồ" ngon ngọt. Bao kiếp trái oan lại tương phùng, cùng nhau giải thoát, kết khối oan gia giờ gặp gỡ thỏa niệm tiêu diêu. Ngục chùa lành thương, Cõi U quan làm thiện".


Quả thật qua bút pháp điêu luyện của Hòa Thượng, người đọc không nghĩ đây là 1 bản dịch nữa, mà đó là áng văn toát ra từ tâm đức và tim óc của Ngài, vốn là một vị Thầy Đàn Chủ Đàn Ngoại của các Đại lễ Chẩn tế bạt độ Âm linh Cô hồn. Tri hành dung thông và hiệp nhất ở trong cửa Phật chính là ở đây, không thể nào sai đi được.


HòaThượng Tăng Giáo Trưởng còn nổi tiếng là người trực tánh, nói thẳng, nhất là việc phá tà hiển chánh, những điều trái ý nghịch lòng Hòa Thượng ít khi giấu kín trong lòng. Một lần nọ, Hòa Thượng đến dự hội thảo về Giáo Dục tại  Education Catholic Head Office tại Melbourne City do GS Phan Văn Giưỡng làm thông dịch viên. Trong hội nghị lúc đó có trên 40 Giáo Sư Đại Học, một bà Giáo sư đến từ Anh Quốc (đang dạy học tại Úc) đứng lên chỉ trích giáo lý Bát Chánh Đạo của Phật Giáo, ý bà nói rằng Giáo lý này có gì hay ho đâu mà nhiều học giả Phật Giáo hay đề cập trong các kỳ hội thảo, thật là nhàm chán. Hòa Thượng Tăng Giáo Trưởng mỉm cười và hỏi: "Thưa Giáo sư, có phải Chánh phủ Úc mời GS đến Úc dạy học phải không?".
Bà GS trả lời: "Tôi qua đây còn phải học thêm một thời gian rồi sau đó mới dạy được".

- Hỏi: "GS muốn dạy gì thì dạy phải không?".
-
Đáp: "Thưa không, phải soạn giáo án cẩn thận rồi tôi mới dạy ".
- Hỏi: "Tiền lương dạy học của GS có đủ chi dụng không?".
- Đáp: "Không, tôi phải đi kiếm việc làm thêm mới đủ".
Lúc đó HT mới nghiêm giọng và hỏi tiếp: "Tại sao GS không đi ăn cắp, ăn trộm cho đủ xài?". Nghe câu hỏi lạ đời này tất cả tham dự viên trong hội trường đều sửng sốt trố mắt nhìn HT, còn bà Giáo sư thì mất bình tỉnh, khoát tay và la lớn: "Never, never, never...", Hòa Thượng mỉm cười hiền hòa và thưa rằng "Thưa GS, như thế thì GS đã trở thành một con người đúng đắn và đang sống trong lời dạy của Bát Chánh Đạo rồi đó". Lúc bấy giờ cả hội trường vổ tay rần rần và chính bản thân GS Phan Văn Giưỡng cũng tươi cười vui mừng vì kết cuộc bất ngờ của câu chuyện; còn riêng bà GS lúc đó cũng mĩm cười vui mừng, vì biết mình đang thể nhập vào lời dạy Bát Chánh Đạo trong cuộc sống của mình.

 

Trên mặt trận thơ ca, HT đã dùng ngòi bút của mình để kêu gọi thế giới trả lời công bằng và công lý cho nhà bác học Galileo, đã bị Tòa thánh Vatican bỏ tù oan uổng vì ông dám nói ngược lại Kinh Thánh về sự thật của vũ trụ, Hòa Thượng đã viết:

Tưởng niệm tình ông thật bao la.

Địa-cầu tinh tú cõi hằng sa,

Viễn vọng ông nhìn trông tận mặt,

Ngu hèn chúng chỉ thấy quanh da!

Chúng gieo thiển-cận đầy u-ám!

Ông trải văn-minh khắp hải-hà.

Siêu nhân Thánh chúa sao mà thế?

Trái đất hình "vuông" ôi xót xa.

 galileo

Nhà bác học Galileo (xem tiểu sử)

Galileo hỡi nhà Bác học,

Mười một năm trong chốn lao lung!

Trái đất hình tròn ông khám phá,

Nhân loại nhờ ông hiểu tận cùng. 

Mắt ông mù nhưng ông không khóc!

Bọn ngu si che dấu lớp hành tung.

Dùng bạo lực bắt giam ông vào ngục,

Chúng xưng Thần nhưng thật quá cuồng ngông.


Vì muốn chấn chính tệ nạn trong Chánh Pháp, Hòa Thượng đã viết các bài:

-  Pháp hành trong thời Mạt Pháp

-   Nhà cầm quyền Taliban phải chăng họ đã phá Phật?


Trong lời Đạo từ lễ khai mạc Đại Hội Phật Giáo Úc Châu kỳ 5 tại TV Quảng Đức, Hòa Thượng Tăng Giáo Trưởng đã tâm sự:“Bản thân tôi đã già yếu, nên xin lấy tư cách Người Trưởng Lão thưa gởi nhắn nhủ đôi lời đến với lớp Tăng Ni trẻ rằng: Là Tỳ kheo, đối với thời này dù là Mạt Pháp, trong tâm niệm chấn hưng các vị hãy coi đó là Tượng Pháp! Trong Tứ-gia-hạnh, Tỳ kheo phải xa 10 chỗ ác nạn như: Giàu có, thế lực, tà pháp, ố nữ, ác đảng, … tất cả các đối trần bất thiện Tỳ Kheo đều nên xa lánh. Hoằng Pháp thời nay, gian nan hơn trước nhiều! Cầu mong Tứ chúng Nội Tu, Ngoại độ sáng suốt, tế nhị, kiệm khẩu hạnh, luôn Từ bi thị chúng sanh. Đối với các vị Tăng Ni còn trẻ mà rời quên Bố Tát, là giảm suy giới thể, mất đức “Chánh Hạnh” làm sao viên mãn được “Gia vụ và lợi sanh”. Mong sao Tập, Khổ chóng viễn ly. Đạo, Diệt sớm nên thành tựu". Thật vậy, từ năm 2012, chính Hòa Thượng và TT Tâm Phương là người đứng ra gầy dựng lễ Bố Tát định kỳ mỗi tháng để hàng Tăng Ni tại tiểu bang Victoria có cơ hội gặp gỡ nhau để ôn tụng giới pháp, chia sẻ công tác Phật sự chung cũng như nương tựa tu học với nhau trong tình Pháp lữ Linh Sơn cốt nhục, bản thân của Hòa Thượng tuy đã cao tuổi hạc nhưng Ngài luôn hiện diện trong các kỳ Bố Tát, cho dù buổi sáng trời mùa Đông lạnh giá khắc nghiệt của Melbourne.


HT Tăng Giáo Trưởng cũng là một nhà thơ lừng danh trên thi đàn của Phật Giáo, lưu lại cho đời nhiều áng thơ bất hủ như bài "Tuổi tức từ", "Mấy khúc thơ lòng", "Nhớ Mẹ", "Phật vào cõi thế", "Mừng Phật giáng trần", đặc biệt bài "Có có không không" đào sâu vào lý mầu của Bát Nhã Tánh Không, Hòa Thượng viết:

"Chớ vương vào có, mơ có có!

Học đạo không không, phải thật không

Có có mà chi đeo với có!

Đã không, thì chớ cột vào không.

Luân hồi sanh tử, ôi có có!

Bỏ hết trần lao, lặng lẽ không.

Có không, có có, không không có.

Bạn đã thấy gì, lẽ có không?

Cái có chơn thường, là có có

Cái không không thiệt, lại không không.

Tất cả đều không, không thật có,

Hiểu rồi, thật có với thật không.

Không như sừng thỏ, là không có!

Có tợ chiêm bao, ấy có không!

Chẳng chấp vào không, chấp vào có,

Thong dong tự tại kể gì "Có Không".

Bài này đã được nhạc sĩ Võ Tá Hân phổ nhạc để phổ biến rộng rãi.

 

Về văn xuôi HT đã viết các bài:

  - Cảm Niệm Mừng Phật Thích Ca Giáng Trần. HT.Thích Huyền Tôn

  - Ý Nghĩa Ngày Thành Đạo. HT.Thích Huyền Tôn

  - Công Hạnh của Bồ Tát Quán Âm. HT.Thích Huyền Tôn

 

Về Truyện ngắn, HT đã viết:

  - Mùa thương.

 - Thức tỉnh.

  - Cực tịnh sanh động.

 - Câu chuyện thuở xưa của hai Ngài Hàn Sơn và Thập Đắc.

  - Chín Ba kiếp Rồi Mới Gặp Con

- Tế Thuyền

 

Hòa Thượng Tăng Giáo Trưởng là người vui tánh, trong các thời thuyết giảng, hay ban Đạo từ vào các Đại lễ, bất cứ khi nào Ngài cầm micro thì thế nào đại chúng cũng có dịp cười òa vui thích khi nghe lời giáo từ của Ngài vừa nhẹ nhàng, ý nhị, hài hước nhưng rất sâu lắng. Hòa Thượng là một bậc Cao Tăng Thạc Đức, Ngài lúc nào cũng hiện thân của "Hữu oai khả úy và hữu nghi khả kính". Ngài ứng thân tế độ chúng sanh như lời của chư Tổ Đức ,"Ngoại hiện tượng vương chi oaiNội hàm sư tử chi đức". Ngài tuy là bậc lãnh đạo tối cao của Giáo Hội nhưng chưa bao giờ có sự ngăn cách với lớp Tăng Ni trẻ, ai cần điều gì, thắc mắc những gì, Hòa Thượng đều từ bi hoan hỷ giải đáp tận tường. Ai ai cũng cảm nhận được sự mát mẻ và từ ái toát ra từ tấm lòng ấm áp của Ngài khi có dịp thân cận học hỏi từ Ngài.


Xuân Bính Thân 2016 cũng là năm Đức Ngài bước sang tuổi đại thọ 89, chúng con xin mượn lời thơ Chúc Mừng Đại Thọ 89 Tuổi của HT Giác Lượng (80 tuổi) gởi từ California, Hoa Kỳ như lời chúc mừng Khánh tuế đến với Hòa Thượng Tăng Giáo Trưởng:



Hóa duyên đã như nguyền, đời hữu hạn,

Thật còn gì hơn nửa kiếp “Tăng Nhân”

Vô vàn, dòng Thích Tử, giữa cõi trần,

Lượng cao cả, chí hy sinh độ chúng.

 

Vô thượng phước,“Ngài Huyền Tôn” tích phước,

Biên giới nào, phân định, xẻ chia nhau,

Xứng thật là Bậc Trưởng Thượng dẫn đầu,

Danh nêu sáng, gương Ngài trong Tứ chúng.

 

Trưởng Đại chúng, thời đại nầy quả đúng,

Tử thừa hành sứ mạng “Tác Như Lai”.

Như Như còn, là sự nghiệp ngày mai,

Lai Lai đáo, thuận: “Ta Bà Hóa Độ”…


Lời cuối chúng con kính chúc Hòa Thượng Tăng Giáo Trưởng Thọ mạng bách niên, Pháp lạc vô biên và Pháp duyên vô ngại.

Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát.
Viết tại Tu Viện Quảng Đức, sáng mùng 4 Tết Bính Thân 2016

 TK. Thích Nguyên Tạng

 


Le An Vi Phat Chua Bao Vuong (145)Le An Vi Phat Chua Bao Vuong (137)Le An Vi Phat Chua Bao Vuong (121)
Le An Vi Phat Chua Bao Vuong (126)Le An Vi Phat Chua Bao Vuong (127)
Lễ An Vị Phật và Lễ Vu Lan PL 2561 (2017) Chùa Bảo Vương

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/07/2010(Xem: 9408)
-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình- -Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-
14/06/2010(Xem: 4387)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.
15/05/2010(Xem: 4324)
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc.
19/03/2010(Xem: 6342)
Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 … Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
10/03/2010(Xem: 5161)
Bản thân tôi (Tín Nghĩa), rất ít có dịp thân cận với Ôn Già Lam. Điều dễ hiểu, vì tôi không xuất thân từ Phật Học Viện. Vả lại, mỗi lần Ôn về Huế (Bảo Quốc), thường vào dịp đầu xuân, thì đa phần Ôn hay đàm luận Phật sự với quý Ôn lớn như Ôn Linh Mụ, Ôn Trúc Lâm, Ôn Linh Quang, Ôn Từ Đàm và Ôn Bảo Quốc, . . . Đầu năm, Ôn thường hay nghe Đại luật (tức là dạy luật Tứ phần) cho hai chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì tôi đạp xe ra học rồi về lại chùa. Vả lại, bổn phận của tôi ở chúng Trúc Lâm cũng tương đối bề bộn. Tuy thế, chính tôi lại có với Ôn ba kỷ niệm khó quên.
10/03/2010(Xem: 7639)
Bây giờ là những ngày cuối năm âm lịch. Thiên hạ cùng viết về Xuân, Tết. Tôi muốn viết về Ôn Già Lam và Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ôn Già Lam là cách gọi tôn kính của những môn đệ và phật-tử hướng về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị viện chủ sáng lập tu viện. Trong tu viện, tăng chúng khi nói về ngài thì chỉ dùng chữ “Ôn” một cách gần gũi. Còn tu viện Quảng Hương Già Lam thì vẫn thường được gọi với cái tên thật ngắn: chùa Già Lam.
10/03/2010(Xem: 6050)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.
10/03/2010(Xem: 12772)
Sau năm 75 các Phật Học Viện đều đóng cửa. Các tăng sinh tại các Phật Học Viện đều trở về chùa cũ của Thầy Tổ để sinh sống và tu học. Thật tế, tu thì có mà học thì hầu như không. Có chăng là Thầy dạy đệ tử trong chùa. Những chùa có ruộng đất thì thầy trò tự túc canh tác để sinh sống. Sinh hoạt giáo dục và đào tạo tăng ni trẻ đã không còn.
05/12/2008(Xem: 8414)
Hình ảnh Mừng Sinh Nhật Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng Ngày 5-12-2008 tại Cao Hùng , Đài Loan tại Nhà Hàng 200 Món Đồ Chay Do Đạo Hữu Tony và quý Phật tử trong phái đoàn Hành Hương Chiêm Bái Phật Tích Ấn Độ tổ chức
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567