Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Huyền Tôn, Sư Thúc của Tôi

14/04/201616:52(Xem: 5898)
Hòa Thượng Huyền Tôn, Sư Thúc của Tôi
 HT Huyen Ton (27)


HÒA THƯỢNG HUYỀN TÔN, SƯ THÚC CỦA TÔI.
 
Ls. Thiện Vân – Nguyễn Tân Hải          



                                                                                         

Học và nghiên cứu Kinh Thủ Lăng Nghiêm từ năm 17 tuổi tôi thấy nhiều khi tưởng như đã nắm bắt được Chân Tâm nhưng rồi sau khoảnh khắc đó, Chân Tâm lại vuột mất như những giọt nước rơi xuống kẽ tay. Đức Phật đã chỉ Tâm nhiều lần qua Kinh Thủ Lăng Nghiêm, người trì chú đọc kinh nghĩ mình đã đi gần đến và sống trong cảnh giới của Chân Tâm. Rút cục rồi đa số cũng trở về với cái tâm vô minh vọng động - Nghĩ cũng buồn! Nhưng đó là đời sống con người với kiếp nhân sinh đầy những nghịch cảnh luôn bị chi phối bởi duyên và nghiệp. Nhưng có nhiều lúc duyên và nghiệp lại đưa đẩy ta vào khoảng không gian và thời gian tràn đầy hạnh phúc.

 

“Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ

Vô duyên đối diện bất tương phùng”

 

Từ ngày có duyên được diện kiến Hòa thượng lần đầu cho đến nay tôi vẫn thường gọi Ngài bằng Thầy. Không phải tôi không thích gọi Ngài là Hòa thuợng nhưng tôi thấy chữ Thầy vẫn thân thương hơn, gần tôi hơn. Mỗi lần gọi Ngài bàng Thầy xưng con, tôi thấy mình nhỏ bé lại và cần được bảo  bọc như đứa bé cần sự chăm sóc của mẹ. Thật là một cảm nghĩ ngây thơ của một người đã gần đến cái tuổi thất thập cổ lai hy như tôi. Nhưng đó là sự thật! Thầy gọi tôi là anh Hải, nhiều khi trong công việc Thầy gọi tôi là Ls. Hải. Gọi thế nào đi chăng nữa tôi cũng chỉ là Thiện Vân, pháp danh do Thầy truyền pháp đặt cho tôi trong buổi lễ Quy Y Tam Bảo ở Việt nam vào năm 1978 lúc Thầy còn trụ thế.

 

Khi định cư ở Melbourne lần viếng thăm Thầy Huyền Tôn lần đầu tại Melbourne cách đây 35 năm, tôi thấy Thầy còn trẻ, khoảng độ trên dưới 50 tuổi. Thầy hỏi tôi một cách đầm ấm: “Anh Hải quy y ở đâu? pháp danh là gì, quy y với Thầy nào?” tôi đáp ngay “Bạch Thầy, con quy y ở chùa Phổ Quang, Phú Nhuận, pháp danh là Thiện Vân và Thầy con là Thượng Tọa Thiện Thông”. Vào lúc đó, Thượng Tọa Thiện Thông đang Trụ trì chùa Phổ Quang. Thầy nhìn tôi, cười một cách thích thú: “Như vậy Thầy và anh Hải có bà con rồi đó, Thượng tọa Thiện Thông là Sư huynh của Thầy, tính thứ bậc thì thầy là Sư thúc của anh Hải. Thầy tiếp “Anh Hải có biết Thầy Thiện Thông giỏi pháp môn nào không?” Tôi đáp: “Thầy con thông thạo Mật Tông.” Thầy Huyền Tôn mỉm cười, một nụ cười rạng rỡ, Thầy nói “Ngoài pháp môn Tịnh Độ, Thầy cũng chuyên về Mật Tông”. À ra thế! lúc đó tôi mới hiểu rằng Thầy Thiện Thông truyền pháp cho tôi và Thầy Huyền Tôn có một liên hệ rất mật thiết trong Phật sự vì Thầy Huyền Tôn trước năm 1975 là Chánh Đại diện Tỉnh Hội Phật giáo tỉnh Gia Định nên Thầy biết rõ các vị tu sĩ Phật giáo thuộc tỉnh Gia Định nơi Thầy Thiện Thông làm Phật sự và Quý Thầy đều đã tu học và thông thạo Mật Giáo.

 

Tại Úc châu có lẽ Hòa thượng Huyền Tôn là một trong những vị tu sĩ Phật giáo tinh thông Hán học. Đa số Kinh điển Phật giáo đều được dịch ra tiếng Việt từ Hán tự. Để hoằng dương Phật Pháp, Ngài chuyên nghiên cứu và dịch thuật nhiều bộ sách và Kinh điển Phật giáo từ Hán tự ra chữ Việt từ năm 1965.

Tác phẩm đầu tay của Ngài là bản dịch Việt ngữ của Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân, dịch năm 1965. Trong những tác phẩm Ngài đã viết hoặc dịch, tác phẩm chú Kinh Chú Mật Giáo, dịch năm 1994 và Du Già Diệm Khẩu Thí Thực Khoa Nghi, dịch năm 2006 là những tác phẩm dịch nổi tiếng của Ngài. Theo tôi biết thì không những ở hải ngoại mà ngay cả các tu sĩ Phật giáo và Phật tử trong nước cũng nghiên cứu và đánh giá cao các tác phẩm dịch này. Một tác phẩm lớn Ngài dự định xuất bản trong tương lai là quyển Năm Ngàn Năm Việt Lịch.

 

Trong những kỷ niệm với Hòa thượng Huyền Tôn, tôi nhớ nhất là vào một lần thăm Thầy, Thầy đã tự tay nấu cơm và sửa soạn bữa ăn trưa cho Thầy và tôi tại Bảo Vương Tự. Vừa nấu cơm và làm món đậu phụ, Thầy nói  “Người ta thường nghĩ là quý Thầy không biết nấu cơm, làm thức ăn nhưng thật ra là quý Thầy cũng như các anh chị cũng đều biết tự nấu nướng cả, anh cứ thử ăn món cặn đậu phụ nầy Thầy làm xem có ngon không?

 

Quả thật, cơm và thức ăn do Hòa thượng Huyền Tôn nấu ngon thật! Ngày hôm đó lòng tôi thấy lâng lâng và cảm thật rất vui khi đã khám phá ra một khía cạnh khác của vị Hòa Thượng mà một số Phật tử nhận xét là khó tính, phải cẩn thận khi đàm đạo với Thầy.

 

Một kỷ niệm khác khó quên với Thầy là ngồi cùng xe 4WD để Thầy lái ở City. Thầy lúc đó cũng đã ngoài 80 tuổi nhưng Thầy xử dụng xe rất nhanh nhẹn và thành thạo như người còn trẻ. Thật khó mà tin được điều trên nếu không thấy tận mắt Thầy lái xe trên đường phố đông người. Tôi mừng vì thấy Thầy còn khoẻ để hướng dẫn Phật tử và phục vụ Đạo pháp. Tôi nghĩ đây cũng là phúc đức được hưởng của người Phật tử tại Úc châu.

 

Trong một lần vấn an Thầy và thấy Thầy không khoẻ, tôi cảm thấy lòng mình chùng xuống khi được Thầy tâm sự, khi đó đôi mắt Thầy trở nên xa vắng, những nét buồn hiện lên mặt Thầy. Với giọng trầm trầm, Thầy nói  “Anh Hải không biết đâu, Thầy chỉ muốn sau này”, Thầy ngừng lại một chút, “Thầy được làm một tiểu đồng theo hầu Phật Quán Thế Âm là Thầy cảm thấy thật hạnh phúc nhất trên đời rồi.” Thật là trùng hợp, Thầy cũng muốn mình nhỏ bé lại để theo hầu Phật Bà trong một kiếp vị lai.

 

Có một lần, trong lúc đàm đạo, tôi hỏi Thầy: “Xin Thầy chỉ cho con biết Tâm Phật là gì ?” Ngài cười hiền hậu: “Anh không  biết thật sao, Tâm Phật là cái Tâm bình thường”. Tôi không hiểu và vấn lại Thầy: “Thế cái Tâm bình thường là gì hả Thầy, xin Thầy chỉ cho con biết”. Thầy Huyền Tôn cười lớn hơn, Ngài nói: “Là làm và vui với những công việc bình thường hàng ngày mà thôi, không có chi lạ cả. Anh Hải có biết câu “Bình thường Tâm thị Đạo không ?” Tôi trả lời Thầy thật nhỏ “Dạ biết”.

 

Thời gian trôi qua, tôi đã hiểu một điều thật giản dị nhưng cũng thật đúng    “Sống vui với những công việc bình thường là hạnh phúc nhất vì những việc, ước muốn có hoặc đã làm được, mà ta tưởng là to tát, quan trọng trên đời này thật ra cũng chỉ là những việc bình thường mà thôi”.

 

Nhờ Ngài Huyền Tôn chỉ dạy, tôi đã và đang sống với cái Tâm bình thường và đó là điều tôi cảm thấy an lạc và hạnh phúc. 

 

Melbourne, Mùa Thu Bính Thân, tháng 4 năm 2016

 Ls. Thiện Vân – Nguyễn Tân Hải   

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/07/2010(Xem: 9419)
-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình- -Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-
14/06/2010(Xem: 4401)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.
15/05/2010(Xem: 4327)
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc.
19/03/2010(Xem: 6345)
Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 … Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
10/03/2010(Xem: 5162)
Bản thân tôi (Tín Nghĩa), rất ít có dịp thân cận với Ôn Già Lam. Điều dễ hiểu, vì tôi không xuất thân từ Phật Học Viện. Vả lại, mỗi lần Ôn về Huế (Bảo Quốc), thường vào dịp đầu xuân, thì đa phần Ôn hay đàm luận Phật sự với quý Ôn lớn như Ôn Linh Mụ, Ôn Trúc Lâm, Ôn Linh Quang, Ôn Từ Đàm và Ôn Bảo Quốc, . . . Đầu năm, Ôn thường hay nghe Đại luật (tức là dạy luật Tứ phần) cho hai chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì tôi đạp xe ra học rồi về lại chùa. Vả lại, bổn phận của tôi ở chúng Trúc Lâm cũng tương đối bề bộn. Tuy thế, chính tôi lại có với Ôn ba kỷ niệm khó quên.
10/03/2010(Xem: 7644)
Bây giờ là những ngày cuối năm âm lịch. Thiên hạ cùng viết về Xuân, Tết. Tôi muốn viết về Ôn Già Lam và Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ôn Già Lam là cách gọi tôn kính của những môn đệ và phật-tử hướng về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị viện chủ sáng lập tu viện. Trong tu viện, tăng chúng khi nói về ngài thì chỉ dùng chữ “Ôn” một cách gần gũi. Còn tu viện Quảng Hương Già Lam thì vẫn thường được gọi với cái tên thật ngắn: chùa Già Lam.
10/03/2010(Xem: 6051)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.
10/03/2010(Xem: 12773)
Sau năm 75 các Phật Học Viện đều đóng cửa. Các tăng sinh tại các Phật Học Viện đều trở về chùa cũ của Thầy Tổ để sinh sống và tu học. Thật tế, tu thì có mà học thì hầu như không. Có chăng là Thầy dạy đệ tử trong chùa. Những chùa có ruộng đất thì thầy trò tự túc canh tác để sinh sống. Sinh hoạt giáo dục và đào tạo tăng ni trẻ đã không còn.
05/12/2008(Xem: 8416)
Hình ảnh Mừng Sinh Nhật Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng Ngày 5-12-2008 tại Cao Hùng , Đài Loan tại Nhà Hàng 200 Món Đồ Chay Do Đạo Hữu Tony và quý Phật tử trong phái đoàn Hành Hương Chiêm Bái Phật Tích Ấn Độ tổ chức
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567