Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoài Niệm về Đấng Minh Sư

31/03/201621:23(Xem: 6286)
Hoài Niệm về Đấng Minh Sư

hT Huyen Ton
HOÀI NIỆM VỀ ĐẤNG MINH SƯ

 

Bảo Minh Toàn

 

Thật khó mà dùng văn tự để viết về một vị Minh Sư của chúng con, vì rằng Sư Phụ là một cao tăng thạc đức, một bậc chân nhân với giới đức và trí tuệ cao thâm cùng với lòng từ bi trong đối nhân xử thế. Tuy nhiên, ở đây chúng con là những đệ tử gần gũi với Sư Phụ, đệ tử sẽ cố gắng ghi lại những cảm nhận trong lòng qua thời gian có diễm phúc được sự chỉ dạy từ nơi Sư Phụ. Trong cơ hội muôn một nầy, với những tâm tư, chúng con xin được gọi là món quà tinh thần, chúng con kính xin dâng lên Sư Phụ để mừng tuổi hạc 89 của Sư Phụ với lòng tri ân của chúng con gởi đến vị Minh Sư.  Lời kính yêu của những người con gởi đến vị cha già hòa ái, nhân từ.

 

Và có lẽ con sẽ bắt đầu với những kỷ niệm của ngày đầu tiên con được gặp một vị chân tu, mà nay là Sư Phụ của con qua “Bát mì đưa duyên”.

 

Con không nhớ được thời gian của ngày đó, con chỉ nhớ ngày ấy được tan sở làm về sớm, con được anh Nguyễn Bá Phụng (Bảo Minh Đạo) và chị Đặng Thị Kim Chi (Bảo Diệu Ngọc) rủ con ghé qua vùng Essendon, nơi ngôi già lam nhỏ, xinh xinh, nơi Sư Phụ trụ trì. Sau khi được giới thiệu qua anh chị, Sư Phụ mời chúng con vào bên trong, vừa trò chuyện, vừa hỏi thăm, Sư Phụ vừa nấu nước và sau mấy phút, một bát mì chay ăn liền được đặt trước mặt con, “Ăn đi con, tan sở giờ nầy, chắc đói bụng lắm phải không?” Con chỉ dạ một tiếng và rồi thinh lặng mà ăn cho đến lúc chào tạm biệt ra về. Con không nói được gì, vì lần đầu tiên con gặp được Sư Phụ với một hình ảnh của một bà mẹ lo miếng ăn cho con. Những lời từ hòa của Sư Phụ đã theo dòng suy nghĩ của con trên đường về.

 

Thế rồi với dòng thời gian trôi chảy, với bận bịu của công việc làm ở sở, với nhu cầu mưu tìm cho cuộc sống, con đã không tìm đến ngôi già lam nhỏ đó một thời gian.

 

Ngày được tin mẹ con khuất bóng, con về quê chịu tang mẹ, trở lại Melbourne với nỗi mất mát lớn lao trong đời con.  Một ngày nọ, có dịp đi qua vùng Sunshine, chợt nhớ đến gia đình của anh chị bạn, con ghé lại thăm, và được anh chị ấy tặng cho con một bộ CD MP3, giảng về Vi diệu Pháp do Sư Cô Tâm Tâm giảng dạy. Trong suốt gần 2 tháng liền, con nghe đi, nghe lại rất nhiều lần, hòa với tâm trạng vừa mất mẹ, sau lại mất cha, với vất vả trong cuộc sống. Và cuối cùng trong một kiếp người, còn lại gì? Con tự hỏi. Vô thường!! Và rồi một hình ảnh của vị tu sĩ với lời nói hòa ái, trong sáng, lại về trong con với hình bóng “Bát mì đưa duyên”.

 

Một ngày kia, một lần nữa, ngày Chủ Nhật, con có dịp đi đến vùng Delahey, bị lạc đường. Con điện thoại cho anh chị Phụng để hỏi đường, qua điện thoại thì được biết là anh ấy cũng đang gần nơi con bị lạc đường. Anh ấy đang ở tại Chùa Bảo Vương.  Thế là con đã tìm đến địa chỉ của chùa. Có phải là duyên đưa đẩy chăng? Và nơi nầy đã thay đổi cả cuộc đời của con, con được an lạc trong cuộc sống hơn, con được qui y Tam Bảo, con được là đệ tử của Sư Phụ.

 

Là những đệ tử của một vị Minh Sư với tài cao, đức rộng và trí tuệ xuất thế, chúng con được Sư Phụ dìu dắt, dạy bảo biết bao điều hay. Từ những Kinh điển thâm diệu của chư Phật, Sư Phụ đã tận tụy, chuyên cần giảng dạy lại cho chúng con với hoài bão giải thoát, giác ngộ là con đường tối thượng.

 

Nơi Sư Phụ, chúng con thấy được đức tính khiêm cung, cần mẫn, cẩn thận trong mọi việc làm. Điển hình như cách xếp đặt, trang nghiêm bàn thờ Phật như thế nào được chỉnh tề, cân xứng. Từ việc cắm cây hương cũng thế, phải thật thẳng đứng v.v.  Nhiều, nhiều lắm.

 

Sư Phụ cũng để lại trong chúng con với lòng vị tha, bao dung, với từ nhãn thị chúng sanh mà Sư Phụ thường nhắc nhở cho chúng con, với huynh đệ trong đạo tràng Bảo Vương, cũng như tất cả đều là thân bằng quyến thuộc từ nhiều đời, nhiều kiếp.

 

Ngoài công việc Phật sự, hằng tuần mỗi Chủ Nhật chúng con đều được Sư Phụ dạy bảo, hướng dẫn trong việc tu tập, chúng con được Sư Phụ khai mở trí huệ qua lời Phật dạy. Là một vị Tăng tài, Sư Phụ còn là một nhà sư phạm với nhiều kinh nghiệm, với những phương pháp giảng giải ngắn gọn mà gói đầy nghĩa lý. Sư Phụ có một phương pháp để lượng giá sự học tập của chúng con hết sức linh động là hỏi lại những gì mà chúng con được Sư Phụ đã dạy một cách ngẫu hứng, bất ngờ. Những lúc ấy đã làm chúng con hết sức lúng túng, có lúc chúng con trả lời được, có lúc không.  Không nhớ được thì Sư Phụ nhắc lại, nhờ vậy mà chúng con nhớ luôn mà không cần ghi chép. Thật là một vị Thầy với nhiều kinh nghiệm. Sư Phụ thường nói: “Đinh có được đóng nhiều lần thì mới đi sâu vào thân gỗ”, thì việc học cũng phải như vậy. Với những thắc mắc từ nơi chúng con, điều nào thấu rõ, thì được Sư Phụ trả lời, giảng rộng thêm để chúng con được rõ.  Điều nào chưa rõ, thì Sư Phụ bảo là để xem lại rồi trả lời sau. Thật là một đức tính khó tìm thấy ở nhiều vị Thầy khác.

 

Chúng con còn được biết Sư Phụ là một nhà Nho học uyên bác, Sư Phụ đã khởi đầu Nho học từ ấu thời. Với nguồn tích lũy thâm sâu đó, mà nay chúng con có diễm phúc là được gần gũi, được học tập nơi quyển “Từ điển sống”.

 

Vì thương đệ tử, mà có lúc Sư Phụ cũng phải nghiêm khắc, quở trách, dạy bảo chúng đệ tử mỗi khi sai quấy với lời dịu ngọt.  Sư Phụ cũng để lại trong mỗi chúng con với những trận cười nhẹ nhàng qua những chuyện dí dỏm, tươi vui trong những lần sinh hoạt. Sư Phụ còn là nhà tâm lý nữa. Chúng con cảm nhận được là hình như Sư Phụ rất hiểu chúng con. Sư Phụ đã dạy bảo nhiều điều hay cho chúng con. Nhiều, nhiều lắm.

 

Ôi, không sao nói hết được. Có đôi lúc, chúng con tự hỏi rằng: Với công lao dìu dắt, dạy bảo của Sư Phụ, ấy vậy mà đôi khi chúng con đã làm điều gì đó để Sư Phụ không vui? Chúng con cúi đầu xin sám hối.

 

Chúng con cũng biết rằng, khi còn ở quê nhà Sư Phụ còn là một giáo sư. Sư Phụ còn viết báo, dịch thuật, làm thơ nữa. Đa tài quá!! Và có lẽ vì vậy mà chúng con có nghe Sư Phụ kể lại một việc là: Sau năm 1975, vào thời điểm nào đó, con không nhớ. Có hai vị cán bộ cao cấp của cục R trong chính quyền thời đó, những vị ấy cung cấp tư liệu và với số tiền là 200,000 đồng (vào thời kỳ đó là một số tiền khá lớn) với đề nghị là Sư Phụ viết một bài nói về “Đường mòn Hồ Chí Minh”.  Sư Phụ đã không đáp ứng được lời yêu cầu của những vị ấy. Sư Phụ đứng trước vực thẳm nguy hiểm trong thời kỳ đó, nhưng Sư Phụ đã vượt qua. Sư Phụ đã không khuất phục trước bạo lực, với viễn kiến. Sư Phụ đã không thực hiện cho việc không hay - chỉ có ở những bậc trí tuệ xuất thế.

 

Một mẫu chuyện nữa: Những năm về trước, trong một buổi hội thảo về vấn đề gì đó con không nhớ được, có nhiều vị trí thức, giáo sư người Tây Phương, con được nghe Sư Phụ kể: Qua thông dịch viên, một vị giáo sư người Anh hỏi Sư Phụ: “Chúng tôi nghe trong Phật Giáo của quý vị nói nhiều về Bát Chánh Đạo. Vậy có gì là hay, xin quí vị nói?”.

 

Không trả lời trực tiếp vào câu hỏi, Sư Phụ hỏi lại vị ấy làm công việc gì? Tiền lương có đủ sống không? Có muốn được nhiều tiền hơn không?

 

Vị ấy trả lời: “Tôi từ Anh quốc đến Melbourne để dạy học, phải làm việc thêm để có đủ sống”.  Sư Phụ hỏi lại: “Vậy sao bà không đi trộm cắp để có nhiều tiền hơn?”. Theo Sư Phụ kể lại thì lúc ấy cả hội trường đều căng thẳng vì câu hỏi đó. Vị ấy hô hoán lên: “No, no!! Never, never!!”.  Sư Phụ nhẹ nhàng trả lời: “Như vậy là bà đã thực hành một trong Bát Chánh Đạo rồi đó, bà đã thực hành Chánh Mạng rồi đó”. Cả hội trường đều vỗ tay. Thật là một trí tuệ bén nhạy, với tài đối ứng.

 

Hòa cùng vận nước nổi trôi, Sư Phụ cũng đã đến được Úc Châu nầy cùng với bao nổi gian truân, nguy hiểm, với bao khó khăn của những ngày tháng đầu khi mới đến xứ lạ. Sư Phụ cũng đã góp một tay vào công cuộc gây dựng lại nề nếp sinh hoạt của Giáo Hội Phật Giáo. Chúng con cũng được biết là từ cơ sở tạm thời ban đầu với nhiều khó nhọc và phải di đổi nhiều chỗ khác nhau, từ Richmond, đến Footscray, đến Essendon, tiếp đó là Delahey, và giờ là vùng Ardeer.  Mỗi nơi, mỗi chỗ chất chồng với bao nghịch cảnh khó khăn.

 

Lúc đạo tràng Bảo Vương tọa lạc tại vùng Delahey, nhằm để nới rộng diện tích cho việc sinh hoạt được rộng rãi, thoải mái hơn, chúng con đang thực hiện công việc mở rộng diện tích – bất chợt chúng con nhìn lên, thì thấy Sư Phụ đã nhỏ lệ.  Sư Phụ khóc có phải vì thấy chúng con vất vả trong công việc dưới cái nắng của Melbourne, phải không Sư Phụ?  Chúng con xốn xang quá. Thế nhưng cũng không được yên ổn với nơi nầy. Và một lần nữa lại chuyển đến vùng Ardeer hiện giờ.

 

Chúng con đã thấy được nỗi trăn trở, nỗi khó khăn trong Sư Phụ. Khó khăn trong sự chờ đợi, trông chờ sự chấp thuận của chính quyền sở tại. Trong lần nhắc đến việc nầy, Sư Phụ một lần nữa đã rơi lệ.

 

Một vị Tăng tài, một học giả uyên bác, một nhà nho học, một dịch giả, là tác giả của nhiều bài viết trên một số báo từ trong nước trước 1975 và ở hải ngoại sau nầy. Những buổi nói chuyện trước công chúng, với giọng nói từ hòa, hoạt ngôn đã đi được vào lòng người nghe.

 

Bên sau của một Vị tài năng, đức độ như thế, Sư Phụ rất dễ xúc động. Chúng con còn nhớ, trong buổi lễ Vu Lan vào năm ngoái, qua bài nói chuyện về ngày lễ nầy, Sư Phụ kể lại lòng hiếu hạnh của Ngài Đại Hiếu Mục Kiền Liên, nhắc đến công lao của cha mẹ dành cho các con. Chúng con cảm nhận được giọng nói nghèn nghẹn trong Sư Phụ, có lẽ lúc đó đôi mắt của Sư Phụ ngấn lệ.

 

Sư Phụ còn có tài làm thơ nữa. “Tuổi Tức Từ” là tựa đề bài thơ mà con rất thích đọc. Qua bài thơ nầy, Sư Phụ đã nói lên được một hoàn cảnh đầy khó khăn, thiếu thốn của những ngày đầu khi theo bước chân Đức Phật để tìm cầu chân lý trong Đạo Phật.

 

Mở đầu bài thơ, Sư Phụ đã nói lên được hoàn cảnh côi cút ở tuổi 13, để từ đó Sư Phụ đã bỏ lại sau lưng tất cả cho cảnh đời thế tục, để bước chân vào chốn thiền môn từ tuổi Ô Sào với bao khổ cực.

 

Bài thơ hay lắm, được nhiều người thích.  Con còn nhớ trong buổi học, có dịp con được đọc lại bài thơ nầy.  Qua 4 câu đầu, đến câu “Đời con giờ cút côi…”, con đã nghẹn lời. Không, con đã khóc, con khóc vì con cũng là đứa con côi cút.

 

Người ta hay nói: “Cho dù một người có khôn lớn, trưởng thành bao lâu đi nữa, nhưng khi không còn cha mẹ bên cạnh, thì không khác gì một trẻ mồ côi”.  Thưa phải không Sư Phụ?

 

Chúng con kính chúc Sư Phụ pháp thể khinh an.

 

Nam Mô A Di Đà Phật

Melbourne, chớm Thu – 2016
Đệ tử Bảo Minh Toàn – Lương Ngọc Tốt

 

 

Ý kiến bạn đọc
01/04/201613:34
Khách
Hay lam anh Bao Minh Toan.
From United Arab Emirates.
1/4/2016.
Bao Minh Duc
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8075)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 4820)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37168)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6115)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6098)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5734)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5637)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5908)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5451)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8754)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]