Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một Người Đã Ra Đi: Thượng Tọa Hạnh Tuấn

08/11/201519:37(Xem: 8205)
Một Người Đã Ra Đi: Thượng Tọa Hạnh Tuấn

 

 

HT Thich Hanh Tuan (4)

     Một Người Ra Đi: HT Hạnh Tuấn

 

Thi sĩ Nguyên Giác nói với giọng nghẹn ngào:

- Thầy Hạnh Tuấn vừa qua đời lúc 2 giờ sáng hôm nay ở Chicago. Anh Phan Tấn Hải tức là thi sĩ Nguyên Giác người có nhiều bài thơ đã được nhạc sĩ Trần Chí Phúc phổ nhạc, báo với tôi tin buồn trong lúc ở nhà hàng Seafood World, khi mọi người đang vui vẻ trong dịp kỷ niệm 21 năm thành lập đài phát thanh Hương Sen.

Thầy Hạnh Tuấn tốt nghiệp Cử nhân ở SF State, Master ở Harvard University, và theo học chương trình Tiến sĩ ở UC Berkeley. Thầy thường đi hoằng pháp với Hòa thượng Tịnh Từ, Viện trưởng Tu Viện Kim Sơn ở miền Bắc Cali, và đi hoằng pháp với Hòa thượng Như Điển ở Đức quốc.

Lần đầu tôi tới nghe Thầy giảng pháp ở trung tâm Quảng Đức trong một buổi chiều nắng nhạt màu, trong Chánh điện không còn một chỗ ngồi, có người ngồi ở sân chùa. Đây là sa mạc nên tôi sợ muỗi cắn lắm nhưng cũng may, tôi đến sớm nên được ngồi trong Chánh điện, Thầy Hạnh Tuấn giảng pháp rất hay, gần với con người, không giảng cao siêu lắm, nên trình độ nào cũng nghe và hiểu được những gì Thầy giảng. Tôi chỉ gặp Thầy khi nào có phái đoàn của các Hòa Thượng Tịnh Từ, Hòa Thượng Như Điển đi thuyết pháp tôi mới có cơ hội gặp lại Thầy. Mỗi năm phái đoàn của các Hòa Thượng giảng pháp ở quận Cam chừng một tuần ở Westminister, rồi đến chùa Phật Tổ ở Long Beach, rồi phái đoàn đi các tiểu bang khác.

Rồi chợt một hôm tôi gọi điện thoại thăm Thầy Trí Siêu, tôi được nghe giọng nói quen quen trả lời điện thoại nhưng tôi biết chắc không phải là giọng của Thầy Trí Siêu, nên tôi hỏi:

- Dạ, xin Thầy cho biết quý danh?

 

- Thầy Hạnh Tuấn.

Tôi reo vui:

- Ủa, Thầy về VN hồi nào vậy Thầy?

- Tôi về để làm luận án Tiến sĩ về Phật Giáo VN.

Rồi tôi hỏi chuyện huyên thuyên về những nơi Thầy Hạnh Tuấn đã đến, và tôi cũng hỏi chừng nào Thầy về lại Hoa Kỳ, và tôi cũng hỏi Thầy Trí Siêu bây giờ ở đâu, ở Việt Nam, Thái Lan hay ở nơi nào?

Gặp người quen tha hồ hỏi chuyện, và tôi hỏi Thầy có gặp khó khăn trong lúc đi làm luận án không?

Từ đó tôi không gặp Thầy nữa, cho đến khi tôi đi họp với YMCA, một hội từ thiện quốc tế hoạt động khắp nơi trên thế giới. Hội đã được thành lập trên 160 năm, ngân sách hoạt động mỗi năm khi kinh tế suy thoái là 6 tỉ mỹ kim, trụ sở chánh ở Mỹ là Chicago, trụ sở của thế giới ở Luân Đôn. Sau khi hội họp xong, tôi nói với bà Giám đốc giao tế nhân sự:

- Ngày mai tôi về lại OC, tối nay tôi muốn đi thăm vài chùa VN ở đây.

Người phụ nữ duyên dáng, người Hoa gốc Mã Lai nói:

- Tôi sẽ đưa bà thăm chùa VN, ở đây có 2 chùa lớn.

Bà đưa tôi đi thăm, chùa thứ nhất tôi đến và gặp Thầy Viện Chủ là đệ tử của Hòa thượng Đức Niệm. Phật Tử và Thầy Trụ Trì đón chúng tôi một cách niềm nở, Phật tử ra vào tấp nập có lẽ là ngày Chủ nhật, họ nói tiếng Hoa, sau chùa có nhiều cây bưởi. Chùa sạch sẽ, trên bàn thờ Phật nhiều hoa tươi và trái cây, người phụ nữ đưa tôi đi nói tiếng Hoa với Thầy Trụ Trì.

 

Thầy mời chúng tôi ở lại dùng cơm, chúng tôi thấy đông khách quá nên giã từ để Thầy tiếp khách.

Chúng tôi đến chùa thứ hai, đó là chùa Trúc Lâm, chùa rất lớn, building 2 tầng, có Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử mời chúng tôi dùng cơm. Chúng tôi ăn cơm chay một cách ngon lành, thức ăn thật nhiều, món nào cũng ngon, ngon hơn ở tiệm.

Trời tối, ngồi ở phòng ăn nhìn ra cửa sổ, có những cành cây rung rinh trong gió, ăn xong chúng tôi mới biết vị Trụ Trì của chùa Trúc Lâm là Thượng Tọa Hạnh Tuấn. Thầy có dạy triết lý Phật Giáo cho sinh viên Mỹ ở chùa hàng tuần, chùa tấp nập người ra người vào. Gần 9 giờ tối thì một phái đoàn gồm có chư Tôn Đức đến chùa từ New Mexico.

Hòa Thượng Tịnh Từ, Viện Chủ TViện Kim Sơn và một số chư Tôn Đức cùng Phật tử vừa bước vào chùa là tôi mừng rỡ, reo lên:

- Thưa Hòa Thượng con là KMD đi họp YMCA vừa xong là viếng thăm chùa.

Thầy Hạnh Tuấn gầy, dáng người khắc khổ hỏi tôi:

- Chị dùng cơm chưa? Ăn chay trường nhiều năm đến nơi nào không có tiệm ăn chay thì chị ăn rau và cơm trắng cũng được.

Tôi thưa với Thầy:

- Thưa Thầy không có Thầy ở chùa nhưng anh chị em Phật Tử đối đãi với khách ở xa đến tử tế lắm; con ăn rồi và ăn nhiều lắm.

Buổi tối vừa nghe Thầy qua đời, tôi cầu nguyện ngay cho Thầy sớm tiêu diêu nơi miền Cực Lạc và không khỏi ngậm ngùi cho Thầy, một người tài hoa mà mất sớm, mấy chục năm miệt mài trong việc học và nghiên cứu, viết nhiều bài bằng tiếng Anh, tiếng Việt. Bài giảng nào của Thầy cũng có sắc thái mới mẻ làm cho người nghe thích thú lắng nghe từng lời, từng câu. Thầy gần gũi với tuổi trẻ và Gia Đình Phật Tử; Thầy đi đâu cũng có những buổi giảng dành cho người trẻ vì Thầy quan niệm tuổi trẻ là rường cột của cộng đồng, của nước nhà. Thầy Hạnh Tuấn được nhiều người thương mến, kính trọng vì Thầy suốt đời phục vụ Đạo pháp; sống vì người hơn vì mình. Thầy là một người thông minh, chịu khó, học hỏi không ngừng, người giỏi như thế mà không có chùa riêng; chắc chắn, nếu Thầy muốn cũng không khó, nhưng Thầy thích đi giảng đạo hơn là làm Trụ Trì của  một ngôi chùa. Thầy nói với chúng tôi:

- Đây là chùa của Hội, tôi đến đâu cũng làm việc hết lòng hết dạ, khi nào ban Quản trị của chùa không bằng lòng nữa thì tôi xách gói ra đi. Tôi có một túi xách nhỏ, sẵn sàng ra đi.

Tôi được biết học trò của Thầy người Mỹ khá đông, tôi gặp một em, người Mỹ, em nói em là học trò về Phật Pháp với Thầy Hạnh Tuấn. Em nói em hy vọng sẽ học được nhiều điều hay ở Thầy, Thầy có kiến thức uyên thâm nên học chắc cũng không hết chữ nghĩa của Thầy.

Học giỏi nhưng rất khiêm tốn, rất nhiều lần gặp Thầy Hạnh Tuấn nhưng tôi chưa bao giờ nghe Thầy phê phán hay nói không tốt về ai. Thầy mong truyền báđạo Phật trong giới trẻ không phân biệt sắc tộc, Thầy tận tụy với mọi người.

Thầy Hạnh Tuấn qua đời trong một tai nạn ở tịnh thất, cách chùa Trúc Lâm 3 giờ đồng hồ xe. Nghe nói khi lính cứu hỏa đến thì Thầy đã qua đời.

Ni Sư Như Ngọc, Viện Chủ chùa A Di Đà nói:

- Thầy Hạnh Tuấn giỏi quá mà qua đời sớm, với 60 tuổi, mà suốt cuộc đời chuyên tâm tu học và hành đạo. Còn mình thì không làm gì được, uổng quá, phải chi mình có thể chết thế cho Thầy!

Ni Sư nói trong giọng nghẹn ngào.

Năm 2015 này, Đại lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, Đại Lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu viên tịch, rồi bây giờ đến Thầy Hạnh Tuấn, một người giỏi trong 50 Thầy trẻ giỏi. Thế hệ thứ hai của Phật Giáo có vào khoảng 30 Tiến Sĩ ở Mỹ, Âu Châu, Úc Châu, Á Châu, có thể nói Thầy Hạnh Tuấn là một trong những người xuất sắc đó.

Ni Sư Như Ngọc nói:

- Thầy Hạnh Tuấn giỏi lắm, sao Thầy lại ra đi sớm quá?

Hòa Thượng Thích Nguyên Trí, Viện Chủ chùa Bát Nhã nói:

- Gia Đình Phật Tử chuẩn bị lên đường đi Chicago để dự Tang lễ Thầy.

- Con cũng nghe Ni Sư Như Ngọc cùng Phật tử của chùa A Di Đà đã mua vé máy bay để đi Chicago.

Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ. Thầy Hạnh Tuấn vừa mất, Phật Tử khắp nơi trên thế giới tổ chức cầu nguyện cho Thầy, bây giờ có lẽ Thầy đã tiêu diêu nơi miền Cực Lạc. Tôi cũng có chút thắc mắc: Thầy hiền lắm, suốt đời tận tụy vì Đạo pháp,  thương mến đồng bào sao Thầy chết một cách bất ngờ quá!

Có lẽ mỗi một người có số, đến giờ đó, ngày đó phải đi là phải lên đường, tôi tin mọi người trong chúng ta đều có số. Còn sống ngày nào thì làm việc thiện ngày đó, giúp ai được điều gì thì giúp, sợ rằng mai này không còn hơi thở, không còn tiếng nói thì làm sao giúp được gì cho ai?

Cuộc sống tu hành của Thầy Hạnh Tuấn, có 60 tuổi đời, 39 tuổi đạo, phải chi Thầy sống thêm 20 năm nữa thì Thầy sẽ giúp được nhiều người hơn. Thầy đi sớm, Phật Giáo mất đi một Tăng tài có lòng, tiếc thay, nhiều người có ý nghĩ như thế.

Thầy sống thì khôn, thác thì linh, xin Thầy phù hộ cho đất nước VN được bảo toàn lãnh thổ, lãnh hải và người dân có cơm ăn áo mặc, trẻ con được đến trường học hành tử tế và mọi người được hạnh phúc ấm no khi VN thật sự có Tự Do, Dân chủ và Nhân quyền.

 

KIỀU MỸ DUYÊN

11/5/2015 

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/05/2012(Xem: 8729)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 20400)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 6240)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 8626)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 5697)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 19234)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 9579)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 6061)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 6850)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
23/03/2012(Xem: 6326)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]