Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cung tiễn Thầy về cảnh Tây Phương

07/12/201521:38(Xem: 8835)
Cung tiễn Thầy về cảnh Tây Phương


thichhanhtuan
 
 CUNG TIỄN THẦY VỀ CẢNH TÂY PHƯƠNG

 

Sáng 19 tháng 9 âm lịch, sau giờ chấp tác để chuẩn bị cho lễ vía đức Bồ tát Quán Thế Âm, tôi nhận được điện thoại của quý Thầy báo tin Thượng tọa Thích Hạnh Tuấn đã mãn duyên trần thế sau khi thọ nạn tại Hoa Kỳ. Thượng tọa Thích Hải Tạng từ Quảng Trị cũng điện vào hỏi tin ấy có thật không? Và tôi thưa: “Chờ con hỏi thăm tin tức quý Thầy lớn xem sự tình thực hư như thế nào?”.

Sau gần một tiếng đồng hồ liên lạc vì máy bận, tôi được Thượng tọa Thích Đồng Mẫn xác nhận tin ấy đúng là sự thật và Thượng tọa Hạnh Tuấn đã qua đời vì sự cố nổ bình ga. Quả thật là một tin đột ngột đầy thương cảm. Dẫu biết rằng trên thế gian này không có việc gì là không thể xảy ra, nhưng không ngờ sự việc thương tâm như thế lại xảy ra với một người con tài hoa của quê hương xứ Quảng.

Trong những tháng ngày hành điệu, tôi thường được Hòa thượng Bổn sư cũng như chư Tôn Đức thường nhắc đến cái tên Thầy Hạnh Tuấn. Mỗi khi nhắc đến tên Thầy thì chư Tôn Đức dành rất nhiều tình cảm và khen ngợi sự chịu khó cầu tiến học hỏi của Thầy. Từ một nông Tăng nơi xứ Quảng, Thầy vượt biên sang Mỹ và phấn đấu học để vào Đại học Harvard, một trường Đại học danh tiếng của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Vì thế, Thầy là niềm tự hào và là niềm kỳ vọng vào sự kế thừa mà chư Tôn Đức trong Môn phái tại quê nhà cũng như hải ngoại gởi gắm.

Năm 1998, Hòa thượng Bổn sư lâm trọng bệnh, tôi từ Đà Lạt về chăm sóc. Cũng dịp này, Thượng tọa Hạnh Tuấn từ Mỹ về đi khảo cứu ván khắc các chùa miền Trung và miền Bắc để làm luận án Tiến sĩ. Thượng tọa đã đến Viên Giác thăm Thầy chúng tôi và lần đầu tiên tôi diện kiến Thượng tọa. Từ đó, thỉnh thoảng mỗi lần có dịp về quê, Thượng tọa đến thắp hương Thầy chúng tôi và thăm hỏi tình hình sinh hoạt của chùa, động viên chúng tôi phấn đấu trên con đường tu học. Tình cảm của Thượng tọa ân cần gần gũi như một người anh trưởng, luôn quan tâm nhắc nhở đến các em thơ dại.

Năm 2007, để có kinh phí góp phần vào việc đại trùng tu Tổ đình Chúc Thánh, Thượng tọa đã bảo lãnh Thượng tọa Đồng Mẫn và tôi sang Mỹ, tháp tùng phái đoàn hoằng pháp Châu Âu của Hòa thượng Thích Như Điển để vận động tài chánh. Mọi việc sắp xếp đều do Hòa thượng Như Điển và Thượng tọa chủ trì; Thượng tọa Đồng Mẫn đọc Tâm Thư kêu gọi của Hòa thượng Thích Trí Giác, Trưởng Môn phái Chúc Thánh và tôi có nhiệm vụ thuyết trình Lịch sử Thiền phái Chúc Thánh. Gần 3 tháng tại Mỹ, tôi có thời gian gần gũi, hiểu biết thêm về sự tu học và hành hoạt của Thượng tọa nhiều hơn.

Đứng về mặt Giáo Hội, Thầy đã dốc hết tâm huyết để xây dựng nên GHPGVNTN Hoa Kỳ. Năm 1991, Thượng tọa phát nguyện cầu pháp với Đức Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu và được Hòa thượng ban cho pháp hiệu Hải Như. Đồng thời, Hòa thượng cũng ân cần khuyến tấn Thượng tọa cố gắng vận động chư Tăng Ni tại Hoa Kỳ ngồi lại với nhau để có tiếng nói chung, yểm trợ cho những Phật sự tại quê nhà. Thượng tọa đã lãnh thọ lời di huấn của Đức Đệ tam Tăng Thống và đã làm tròn bổn phận của một người đệ tử. Sau khi Đại hội thành lập GHPGVNTN Hoa Kỳ thành công vào tháng 9 năm 1992, vì muốn dành nhiều thời gian cho sự nghiên cứu tu học, Thượng tọa đã không đảm nhận chức vụ nào trong Giáo hội. Mãi đến năm 2006, Thượng tọa đảm nhiệm trụ trì Chùa Trúc Lâm tại Chicago và năm 2008 mới giữ chức vụ Tổng vụ trưởng tổng vụ Thanh niên thuộc GHPGVNTNHK.

Đứng về Môn phái Chúc Thánh, Thầy đã đóng góp công sức rất nhiều. Đặc biệt trong việc vận động trùng tu Tổ đình Chúc Thánh vào năm 2007, Thầy đã vất vả ngược xuôi hai miền Nam, Bắc Cali để chuẩn bị cho các buổi tiệc chay gây quỹ. Trong việc thành lập môn phái Chúc Thánh tại Hải ngoại, Thầy là một nhân tố tích cực và cũng đã một lần tổ chức Lễ giỗ Tổ sư Minh Hải Pháp Bảo tại Chùa Trúc Lâm để chư Tăng Ni trong Tông môn có dịp ngồi lại với nhau. Quý Hòa thượng trong Tông môn ai cũng đều thương yêu quý mến Thầy. Hòa thượng Như Huệ đã từng mời Thầy sang Úc hành đạo và sẽ kế thừa Ngài trụ trì chùa Pháp Hoa; Cố Hòa thượng Thích Như Thọ cũng đã có lần tâm sự, sẽ giao cho Thầy Trụ trì chùa Bửu Đà nếu như sau này Thầy trở về quê hương hành đạo. Nhưng có lẽ Phật bổ xứ Thầy ở Mỹ để hướng dẫn tinh thần cho đồng bào Việt tha hương và Thầy đã tận tụy với trách nhiệm của mình cho đến ngày mãn duyên trần thế.

Đối với Tổ đình Phước Lâm, nơi Thầy sơ tâm xuất gia học đạo, Thầy luôn ưu tư khắc khoải cho việc xây dựng lại ngôi Già lam lịch sử. Thỉnh thoảng, trong điều kiện có thể của mình, Thầy đã gởi về trợ duyên cùng với Thượng tọa trụ trì Thích Hạnh Hoa chỉnh trang chốn Tổ ngày một khang trang hơn.

Với chúng tôi, Thầy luôn có một sự quan tâm đặc biệt. Bởi lẽ mối nhân duyên sâu đậm trước đây giữa Hòa thượng Bổn sư của tôi với Thầy. Tôi nhớ vào năm 2003, tôi được Hòa thượng Thích Như Điển bảo lãnh sang Đức để dự Lễ kỷ niệm 25 năm thành lập và bổ nhiệm Thầy Hạnh Tấn trụ trì chùa Viên Giác. Trong một phiên họp nội bộ chư Tăng Ni môn phái (chủ yếu là môn hạ chùa Viên Giác tại Đức) và có Thầy tham dự. Thượng tọa Như Điển có nói: “Năm nay tôi cử Thầy Hạnh Tấn làm Trụ trì chùa Viên Giác và tôi lui về ngôi Phương trượng. Đối với chùa Viên Giác tại Hội An cũng vậy, Sư phụ giao cho tôi Trụ trì nhưng tôi không về được, nên nay tôi mời Như Tịnh sang để truyền trao việc Trụ trì chùa Viên Giác.”

Chư Tăng lúc đó đều tán đồng và không có ý kiến gì, chỉ có Thượng tọa Hạnh Tuấn đứng lên phát biểu: “Thượng tọa giao việc Trụ trì cho Thầy Như Tịnh cũng tốt. Tuy nhiên, Thầy Như Tịnh còn quá trẻ và còn phải đi học, rồi việc trùng tu sửa sang tự viện thì ai là người sẽ đứng ra lo?”

Lúc đó Thượng tọa Như Điển có nói: “Tôi lên ngôi Phương trượng tại Viên Giác, Đức quốc thì dĩ nhiên cũng là Phương trượng Viên Giác tại Hội An, vì thế việc sửa sang chùa Thầy Tổ thì tôi phải có trách nhiệm gánh vác, xin Thầy yên tâm”.

Qua lời phát biểu của Thượng tọa, tôi cảm nhận được những tình cảm ưu ái và quan tâm không những đối với cá nhân tôi mà đối với sự phát triển của chùa Viên Giác tại Hội An trong tương lai. Trong lần tổ chức Lễ giỗ Tổ Minh Hải Pháp Bảo được tổ chức tại Chùa Trúc Lâm, Thượng tọa cũng có nhã ý mời tôi sang thuyết trình về Thiền phái Chúc Thánh. Tuy nhiên, chưa hội đủ nhân duyên nên không tái ngộ cùng Thầy tại Chùa Trúc Lâm, Chicago. Lần cuối cùng tôi gặp Thượng tọa là trong dịp dự Lễ khánh thành Cực Lạc Cảnh Giới Tự tại Chaingmai, Thái Lan. Những năm sau này, nghe chư huynh đệ nói Thượng tọa giao chùa Trúc Lâm cho Thầy Thông Viên chăm sóc, còn Thượng tọa lập Tịnh thất Trúc Lâm để ẩn tu và nghiên cứu Phật học.

Thế rồi, buồn thay! Vô thường chợt đến, Thầy đã giã từ tất cả để trở về với cảnh giới an nhiên tự tại. Kể từ đây, con đường xưa phố Hội, nơi đã từng lưu dấu biết bao kỷ niệm ngày nào, không còn được đón bước chân Thầy về thăm lại. Tăng Ni trong Tông môn không còn có cơ hội được nhìn thấy tôn dung Thầy nữa. Và, bao nhiêu sự kỳ vọng của lớp hậu học chúng con đã từng gởi gắm ở nơi Thầy, một bậc Thầy đi trước, mà mỗi một lần nghĩ đến là mỗi một niềm kính ngưỡng, tự hào …Ôi thôi, coi như đã lịm tắt từ đây!

Viết đến đây, tôi chợt nhớ lại, có một lần nghe Thầy giảng. Thầy nói rằng: “Là người con Phật, chúng ta ai cũng có tâm nguyện sanh về Cảnh giới Tây phương của Đức Phật A Di Đà. Thế mà khi chúng ta bỏ thân ở cõi Ta Bà để sanh về Tịnh Độ thì đáng lý mình phải vui, phải chúc mừng mới đúng, chứ sao lại thành kính phân ưu, khóc lóc thở than….” Tinh thần tu và học Phật của Thầy là như thế. Hy vọng giờ nầy, Thầy sẽ thanh thản mỉm cười nơi cõi Tịnh.

Thầy ơi, vẫn biết đó là niềm vui, là sở nguyện của Thầy, nhưng lòng con sao bỗng thấy nghẹn ngào …!

Cung kính tiễn biệt Thầy!

Chùa Viên Giác, đêm 23 tháng 9 năm Ất Mùi (4/11/2015)

Hậu học Như Tịnh  kính ghi.

 

Ý kiến bạn đọc
07/12/201511:50
Khách
Nguyện cầu Giác Linh của Cố Thượng Tọa Trụ trì chùa Viên Giác
Cao Đăng về Phật Quốc
Nam Mô tiếp dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/05/2012(Xem: 8729)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 20400)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 6240)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 8626)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 5697)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 19234)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 9579)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 6061)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 6850)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
23/03/2012(Xem: 6326)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]