Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 291: Phẩm Trước Và Không Trước Tướng 05

12/07/201511:15(Xem: 14722)
Quyển 291: Phẩm Trước Và Không Trước Tướng 05

Tập 06

 Quyển 291

 Phẩm Trước Và Không Trước Tướng 05
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí



 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành năm loại mắt trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành sáu phép thần thông trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành mười lực Phật trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành pháp không quên mất trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh luôn luôn xả trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành trí nhất thiết trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tất cả pháp môn Đà-la-ni trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành quả Dự-lưu trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành quả vị Độc-giác trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tất cả hạnh đại Bồ-tát trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với sắc, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với thọ, tưởng, hành, thức, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với nhãn xứ, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với sắc xứ, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với nhãn giới, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với nhĩ giới, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với tỷ giới, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với thiệt giới, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với thân giới, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với ý giới, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với địa giới, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với vô minh, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với pháp không nội, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với chơn như, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với Thánh đế khổ, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với bốn tịnh lự, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với tám giải thoát, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với bốn niệm trụ, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với pháp môn giải thoát không, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với mười địa Bồ-tát, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với năm loại mắt, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với sáu phép thần thông, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với mười lực Phật, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với pháp không quên mất, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với tánh luôn luôn xả, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với trí nhất thiết, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với quả Dự-lưu, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với quả vị Độc-giác, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với tất cả hạnh đại Bồ-tát, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Rất đặc biệt! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là pháp tánh sâu xa, hoặc nói hoặc chẳng nói đều chẳng tăng chẳng giảm.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông nói, Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế là pháp tánh sâu xa, hoặc nói hoặc chẳng nói đều chẳng tăng chẳng giảm.

Này Thiện Hiện! Giả sử Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trọn đời khen hay chê hư không thì hư không kia vẫn không tăng không giảm, Bát-nhã-ba-la-mật-đa ấy, pháp tánh sâu xa cũng giống như vậy, hoặc khen hay chê chẳng tăng chẳng giảm.

Này Thiện Hiện! Thí như ảo thuật gia đối với việc khen hay chê chẳng tăng chẳng giảm không buồn, không vui, Bát-nhã-ba-la-mật-đa ấy, pháp tánh sâu xa cũng giống như thế, hoặc nói hoặc chẳng nói vẫn như như không khác.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa là việc rất khó, bởi vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, hoặc tu hoặc chẳng tu không tăng không giảm, cũng không thuận, trái, thế mà chuyên cần tu học Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế cho đến quả vị giác ngộ cao tột không hề thối chuyển. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như tu hư không, hoàn toàn không có sở hữu. Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có sắc có thể an lập, không có thọ, tưởng, hành, thức có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có nhãn xứ có thể an lập, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có sắc xứ có thể an lập, không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có nhãn giới có thể an lập, không có sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có nhĩ giới có thể an lập, không có thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có tỷ giới có thể an lập, không có hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có thiệt giới có thể an lập, không có vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có thân giới có thể an lập, không có xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có ý giới có thể an lập, không có pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có địa giới có thể an lập, không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có vô minh có thể an lập, không có hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có bố thí Ba-la-mật-đa có thể an lập, không có tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có pháp không nội có thể an lập, không có pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có chơn như có thể an lập, không có pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có Thánh đế khổ có thể an lập, không có thánh đế tập, diệt, đạo có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có bốn tịnh lự có thể an lập, không có bốn vô lượng, bốn định vô sắc có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có tám giải thoát có thể an lập, không có tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có bốn niệm trụ có thể an lập, không có bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có pháp môn giải thoát không có thể an lập, không có pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có mười địa Bồ-tát có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có năm loại mắt có thể an lập, không có sáu phép thần thông có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có mười lực Phật có thể an lập, không có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có pháp không quên mất có thể an lập, không có tánh luôn luôn xả có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có trí nhất thiết có thể an lập, không có trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có tất cả pháp môn Đà-la-ni có thể an lập, không có tất cả pháp môn Tam-ma-địa có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có quả Dự-lưu có thể an lập, không có quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có quả vị Độc-giác có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có tất cả hạnh đại Bồ-tát có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy có khả năng mặc áo giáp đại công đức như thế, chúng con và hữu tình đều nên kính lễ.

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát vì các hữu tình mặc áo giáp đại công đức, chuyên cần tinh tấn thì giống như vì hư không mặc áo giáp đại công đức phát khởi chuyên cần tinh tấn.

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát vì muốn thành thục, giải thoát hữu tình, mặc áo giáp đại công đức, chuyên cần tinh tấn thì giống như vì hư không, thành thục giải thoát mặc áo giáp đại công đức, phát khởi chuyên cần tinh tấn.

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát vì tất cả pháp mà mặc áo giáp đại công đức, chuyên cần tinh tấn thì như vì hư không mặc áo giáp đại công đức, phát khởi chuyên cần tinh tấn.

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát vì cứu vớt hữu tình, khiến ra khỏi sanh tử mặc áo giáp đại công đức, chuyên cần tinh tấn thì như vì nhấc hư không đặt lên chỗ rất cao mà mặc áo giáp đại công đức, phát khởi chuyên cần tinh tấn.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát đắc đại tinh tấn Bát-nhã-ba-la-mật-đa vì các loài hữu tình như hư không, mau thoát sanh tử, phát khởi hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát đắc đại thần lực chẳng thể nghĩ bàn, không sánh kịp, vì các biển pháp tánh như hư không mặc áo giáp đại công đức, phát khởi hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát vô cùng dõng mãnh vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật như hư không, mặc áo giáp công đức, phát khởi sự chuyên cần tinh tấn.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát vì các loài hữu tình như hư không cần tu khổ hạnh, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột rất là ít có. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Giả sử chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đầy cả thế giới ba lần ngàn nhiều như rừng tre, mè, lau, mía v.v… hoặc trải qua một kiếp hay hơn một kiếp, vì các hữu tình thường nói chánh pháp để độ vô lượng, vô biên hữu tình, khiến nhập Niết-bàn, rốt ráo an lạc nhưng thế giới hữu tình chẳng tăng, chẳng giảm. Vì sao? Vì các hữu tình đều không có sở hữu, bản tánh viễn ly.

Bạch Thế Tôn! Giả sử chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khắp trong mười phương thế giới như cát sông Hằng, nhiều như các rừng tre, mè, lau, mía v.v… hoặc trải qua một kiếp hay hơn một kiếp, vì các hữu tình, thường thuyết chánh pháp để độ vô lượng vô biên hữu tình, khiến nhập Niết-bàn, rốt ráo an lạc nhưng thế giới hữu tình chẳng tăng chẳng giảm. Vì sao? Vì các hữu tình đều không có sở hữu, bản tánh viễn ly.

Bạch Thế Tôn! Giả sử chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khắp tất cả mười phương thế giới nhiều như rừng tre, mè, lau, mía, hoặc một kiếp hay hơn một kiếp, vì các hữu tình thường nói chánh pháp, để độ vô lượng vô biên hữu tình, khiến vào Niết-bàn, rốt ráo an lạc nhưng thế giới hữu tình chẳng tăng chẳng giảm. Vì sao? Vì các hữu tình đều không có sở hữu, bản tánh viễn ly.

Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên ấy, con nói thế này, đại Bồ-tát vì các loài hữu tình như hư không, thành thục giải thoát, cần tu khổ hạnh, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột rất là ít có.

Bấy giờ, trong pháp hội có một Bí-sô thầm nghĩ thế này, ta nên kính lễ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa. Trong đây tuy là không có các pháp sanh diệt nhưng mà có giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn có thể an lập được; cũng có quả Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể an lập được; cũng có quả vị Độc-giác có thể an lập được; cũng có quả vị giác ngộ cao tột có thể an lập được; cũng có ngôi báu Phật, Pháp, Tăng có thể an lập được; cũng có sự chuyển vận bánh xe pháp mầu nhiệm, độ các loài hữu tình có thể an lập được.

Đức Phật biết ý nghĩ ấy, bảo rằng:

Này Bí-sô! Đúng vậy! Đúng vậy! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vi diệu khó lường.

Bấy giờ, Thiên Đế Thích hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

Thưa Đại đức! Nếu đại Bồ-tát muốn học Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa thì nên học như thế nào?

Thiện Hiện đáp: Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát muốn học Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa thì nên học như hư không.

Khi ấy, Thiên Đế Thích lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa đã diễn nói này, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, vì người khác diễn nói, thì con sẽ làm thế nào để bảo vệ? Cúi xin Thế Tôn rũ lòng thương chỉ giáo.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bảo Thiên Đế Thích:

Này Kiều Thi Ca! Ông thấy có pháp có thể bảo vệ chăng?

Thiên Đế Thích thưa: Dạ không, thưa Đại đức! tôi không thấy có pháp để có thể bảo vệ.

Thiện Hiện nói: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào an trú như Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa đã diễn nói tức là thủ hộ. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào an trú như Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa đã diễn nói, thường chẳng xa lìa thì nên biết tất cả nhơn và phi nhơn v.v… muốn rình tìm chỗ sơ hở để làm hại, hoàn toàn không thể được.

Này Kiều Thi Ca! Nếu muốn bảo vệ các Bồ-tát an trú Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như đã diễn nói, thì như muốn bảo vệ hư không không khác.

Này Kiều Thi Ca! Nếu muốn bảo vệ các Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì đó là sự hoang tưởng nhọc mệt, hoàn toàn không ích lợi.

Này Kiều Thi Ca! Theo ý ông thì sao, có thể bảo vệ ảo thuật, chiêm bao, tiếng vang, ảnh tượng, bóng nắng, ánh chớp, sự biến hóa và ảo thành chăng?

Thiên Đế Thích thưa: Dạ không! Thưa Đại đức!

Thiện Hiện nói: Này Kiều Thi Ca! Muốn bảo vệ các Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như thế, hoang tưởng mệt nhọc hoàn toàn không lợi ích.

Này Kiều Thi Ca! Theo ý ông thì sao? Có thể bảo vệ tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các việc biến hóa mà Phật đã làm chăng?

Thiên Đế Thích thưa: Dạ không, thưa Đại đức!

Thiện Hiện nói: Này Kiều Thi Ca! Nếu muốn bảo vệ các Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như thế, hoang tưởng, mệt nhọc, hoàn toàn không lợi ích.

Này Kiều Thi Ca! Theo ý ông thì sao? Có thể bảo vệ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chăng?

Thiên Đế Thích thưa: Dạ không, thưa Đại đức!

Thiện Hiện nói: Này Kiều Thi Ca! Nếu muốn bảo vệ các Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như thế, hoang tưởng, mệt nhọc hoàn toàn không lợi ích.

Bấy giờ, Thiên Đế Thích hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

Thưa Đại đức! Thế nào là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh, như chiêm bao, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng nắng, như bóng sáng, như sự biến hóa, như ảo thành mà đại Bồ-tát ấy chẳng chấp là ảo ảnh, là chiêm bao, là tiếng vang, là ảnh tượng, là bóng nắng, là bóng sáng, là sự biến hóa, là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh, do chiêm bao, do tiếng vang, do ảnh tượng, do bóng nắng, do bóng sáng, do sự biến hóa, do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh, thuộc chiêm bao, thuộc tiếng vang, thuộc ảnh tượng, thuộc bóng nắng, thuộc bóng sáng, thuộc sự biến hóa, thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh, nương chiêm bao, nương tiếng vang, nương ảnh tượng, nương bóng nắng, nương bóng sáng, nương sự biến hóa, nương ảo thành?

Thiện Hiện đáp: Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là sắc, là thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng chấp do sắc, do thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng chấp thuộc sắc, thuộc thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng chấp nương sắc, nương thọ, tưởng, hành, thức là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là nhãn xứ, là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng chẳng chấp do nhãn xứ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng chẳng chấp thuộc nhãn xứ, thuộc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng chẳng chấp nương nhãn xứ, nương nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là sắc xứ, là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng chẳng chấp do sắc xứ, do thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng chẳng chấp thuộc sắc xứ, thuộc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng chẳng chấp nương sắc xứ, nương thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là nhãn giới, là sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp do nhãn giới, do sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp thuộc nhãn giới, thuộc sắc giới cho đến thuộc các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp nương nhãn giới, nương sắc giới cho đến nương các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là nhĩ giới, là thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng chấp do nhĩ giới, do thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp thuộc nhĩ giới, thuộc thanh giới cho đến thuộc các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp nương nhĩ giới, nương thanh giới cho đến nương các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là tỷ giới, là hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng chấp do tỷ giới, do hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp thuộc tỷ giới, thuộc hương giới cho đến thuộc các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp nương tỷ giới, nương hương giới cho đến nương các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là thiệt giới, là vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng chấp do thiệt giới, do vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp thuộc thiệt giới, thuộc vị giới cho đến thuộc các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp nương thiệt giới, nương vị giới cho đến nương các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là thân giới, là xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng chấp do thân giới, do xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp thuộc thân giới, thuộc xúc giới cho đến thuộc các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp nương thân giới, nương xúc giới cho đến nương các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là ý giới, là pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng chấp do ý giới, do pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp thuộc ý giới, thuộc pháp giới cho đến thuộc các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp nương ý giới, nương pháp giới cho đến nương các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là địa giới, là thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cũng chẳng chấp do địa giới, do thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cũng chẳng chấp thuộc địa giới, thuộc thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cũng chẳng chấp nương địa giới, nương thủy, hỏa, phong, không, thức giới là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là vô minh, là hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, cũng chẳng chấp do vô minh, do hành cho đến do lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, cũng chẳng chấp thuộc vô minh, thuộc hành cho đến thuộc lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, cũng chẳng chấp nương vô minh, nương hành cho đến nương lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là bố thí Ba-la-mật-đa, là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng chấp do bố thí Ba-la-mật-đa, do tịnh giới cho đến do Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng chấp thuộc bố thí Ba-la-mật-đa, thuộc tịnh giới cho đến thuộc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng chấp nương bố thí Ba-la-mật-đa, nương tịnh giới cho đến nương Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là pháp không nội, là pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng chẳng chấp do pháp không nội, do pháp không ngoại cho đến do pháp không không tánh tự tánh, cũng chẳng chấp thuộc pháp không nội, thuộc pháp không ngoại cho đến thuộc pháp không không tánh tự tánh, cũng chẳng chấp nương pháp không nội, nương pháp không ngoại cho đến nương pháp không không tánh tự tánh là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là chơn như, là pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, cũng chẳng chấp do chơn như, do pháp giới cho đến do cảnh giới bất tư nghì, cũng chẳng chấp thuộc chơn như, thuộc pháp giới cho đến thuộc cảnh giới bất tư nghì, cũng chẳng chấp nương chơn như, nương pháp giới cho đến nương cảnh giới bất tư nghì là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là Thánh đế khổ, là Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng chẳng chấp do Thánh đế khổ, do Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng chẳng chấp thuộc Thánh đế khổ, thuộc Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng chẳng chấp nương Thánh đế khổ, nương Thánh đế tập, diệt, đạo là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là bốn tịnh lự, là bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng chẳng chấp do bốn tịnh lự, do bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng chẳng chấp thuộc bốn tịnh lự, thuộc bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng chẳng chấp nương bốn tịnh lự, nương bốn vô lượng, bốn định vô sắc là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

 

Quyển thứ 291

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2014(Xem: 8431)
Pháp danh : Trừng Thành Pháp tự : Chí Thông, Pháp hiệu : Thích Giác Tiên. Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42 Thế danh : Ngài họ Nguyễn Duy húy là Quyển. Thọ sanh năm Canh thìn, niên hiệu Tự Đức đời thứ 33 (1879). Chánh quán làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1883, lên bốn tuổi thì song thân đều mất. Ngài được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Nhờ bẩm chất thông minh nên thân thuộc cho theo Nho học một thời gian. Nhận thấy giáo lý Phật đà mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát ; từ đó, ngài xin với thân thuộc xuất gia đầu Phật. Năm 1890, được 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với tổ Tâm Tịnh.
01/10/2014(Xem: 8507)
Phật Giáo Việt Nam thời cận đại đã viết lên trang lịch sử bằng máu, xương của Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử. Dòng lịch sử ấy đã nêu cao tấm gương hy sinh bất khuất trước những đàn áp, bạo lực, súng đạn, nhà tù và lựu đạn. Phải chăng đây là một chặng đường lịch sử oai hùng mà Phật Giáo Việt Nam đã biểu tỏ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi để vực dậy một nền văn hóa đã bị sụp đổ bởi một chế độ tha hóa, ngoại lai xâm nhập vào quê hương Việt Nam.
01/10/2014(Xem: 10192)
Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.
09/09/2014(Xem: 14107)
Hòa Thượng Thích Giác Thông, tục danh Đổ Văn Bé, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1939 tại Mỹ Hòa Hưng, Huyện Châu Thành, An Giang, Long Xuyên. Trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân Phụ là Cụ Ông Đổ Nhựt Thăng, Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Khiên, Hòa Thuợng là người anh cả trong số 6 anh em ( 3 trai, 3 gái ), được nuôi dưỡng trong một gia đình nông dân hiền lành, có truyền thống đạo đức, nên từ nhỏ Hòa Thượng đã là người sớm có tư chất hiền lương, có tâm thương người mến vật, là con có hiếu với ông bà cha mẹ.
06/09/2014(Xem: 8265)
Không biết đây là lá thư thứ mấy con đã viết mà không bao giờ gởi đi, bởi vì con biết thư có vượt ngàn dặm trùng dương bay về thì Thầy cũng vẫn không cầm đọc được, chứng bịnh Parkinson đã làm cho hai tay Thầy run nhiều quá nhưng nhân mùa Phật Đản nhớ đến Thầy, con lại muốn viết. Thời gian sau này, con vẫn theo dõi thường xuyên sức khỏe của Thầy, con buồn vô cùng, Thầy đã bị bịnh, không thoát khỏi qui luật sinh, lão, bịnh mà con thì ở xa quá, không thăm viếng cận kề Thầy được như ngày xưa nữa !
05/09/2014(Xem: 16889)
Còn đây của báu trong nhà Không là ngọc bảo, không là hoàng kim Bình thường chiếc áo tràng lam Mà sao quý vượt muôn ngàn ngọc châu! Những năm cầu thực dãi dầu Sớm mai tụng niệm, đêm thâu mật trì Dòng đời mãi cuốn con đi Về nương chốn tịnh có Thầy, có Ôn… Kinh truyền ban phát khuyên lơn
02/09/2014(Xem: 11890)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
12/08/2014(Xem: 16607)
Cô là 1 nữ sinh trẻ nhất của Sài Gòn đã anh dũng ngã xuống trước họng súng của quân thù tàn bạo trong 1 buổi sáng mùa thu năm 1963 trước cửa chợ Bến Thành, với hàng ngàn sinh viên, học sinh và nhân dân phật tử trước cửa chợ Bến Thành. Và ngay sau đó, Thành hội sinh viên học sinh Sài Gòn đã quyên góp vận động ủng hộ xây bức tượng thờ người nữ học sinh anh hùng tuổi 15 đặt ngay công trường Diên Hồng trước cửa chính chợ Bến Thành ngày nay với sự chứng kiến của hàng ngàn người dân, phật tử thành phố và sinh viên, học sinh.
09/08/2014(Xem: 12749)
Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7). Nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé, vì vậy Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm. Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng cao đẳng tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ tú tài toàn phần tại Trường Khải Định - Huế (nay là Trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm
03/08/2014(Xem: 6836)
Lễ nhập quan được cử hành tại Bình Quang Ni tự vào lúc 18g00 cùng ngày. Lễ phúng viếng bắt đầu từ 8g00 ngày 9-7 Giáp Ngọ (4-8-2014). Lễ truy niệm được cử hành vào lúc 4g00 sáng nay, 12-7 Giáp Ngọ (7-8-2014); lễ phụng tống kim quan vào lúc 6g00 sáng cùng ngày. Nhục thân cố Ni trưởng tới đài hỏa táng núi Dinh, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu làm lễ trà-tỳ. Tro cốt của Ni trưởng sẽ được nhập bảo tháp tại Bình Quang Ni tự. Được biết, cố NT.Thích nữ Huyền Tông thế danh Dương Thị Ngọc Cúc, sinh năm 1918 tại P.Đức Thắng, TP.Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Vì sớm giác ngộ lý vô thường, nên năm 17 tuổi (1936), Ni trưởng cùng người cô của mình là cố Ni trưởng Huyền Học quyết tâm vào Sài Gòn xuất gia với cố Ni trưởng Diệu Tịnh tại chùa Hải Ấn. Đến năm 1940, Ni trưởng được thọ giới Cụ túc tại Giới đàn chùa Vạn An (tỉnh Sa Đéc). Suốt hơn 2/3 thế kỷ tu học và hành đạo, Ni trưởng đã tham gia vào phong trào đấu tranh yêu nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1945, đấu tranh đòi quyền bình đẳng tô
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]