Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 172: Phẩm Tùy Hỷ Hồi Hướng 5, Phẩm Khen Bát Nhã 1

08/07/201510:14(Xem: 14348)
Quyển 172: Phẩm Tùy Hỷ Hồi Hướng 5, Phẩm Khen Bát Nhã 1


Tập 04

Quyển 172

Phẩm Tùy Hỷ Hồi Hướng 5
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn đã nói, sự tùy hỷ hồi hướng của thiện nam tử thiện nữ nhơn v.v... ấy là tối thắng, là tôn quí, là cao siêu, là vi diệu, là cao cả, là không gì trên, không gì bằng, không gì hơn. Bạch Thế Tôn! Vì sao Ngài nói tùy hỷ hồi hướng ấy là tối thắng, là tôn quí, là cao siêu, là vi diệu, là cao cả, là không gì trên, không gì bằng, không gì hơn?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy đối với khắp cả các thiện căn của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Thanh-văn, Độc-giác, Bồ-tát và tất cả các hữu tình khác ở quá khứ, vị lại, hiện tại trong mười phương thế giới, chẳng thủ chẳng xả, chẳng kiêu căng, chẳng khinh miệt, chẳng phải có sở đắc, chẳng phải không sở đắc; lại biết các pháp là không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, không khứ, không lai, không tụ, không tán, không nhập, không xuất, nghĩ như thế này: Như các pháp chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì ở quá khứ, vị lai, hiện tại kia, ta cũng tùy hỷ hồi hướng như thế. Này Thiện Hiện! Ngang bằng sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng của đại Bồ-tát ấy, thì Ta nói là tối thắng, là tôn quí, là cao siêu, là vi diệu, là cao cả, là không gì trên, không gì bằng, không gì hơn. Này Thiện Hiện! Sự tùy hỷ hồi hướng như thế hơn các sự tùy hỷ hồi hướng khác gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp trăm ngàn lần, gấp ức lần, gấp trăm ức lần, gấp ngàn ức lần, gấp trăm ngàn ức lần, gấp vô số trăm ngàn ức lần, gấp bội số, bội toán, bội tính, bội dụ cho đến bội cực số… Vì vậy nên Ta nói sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng như thế là tối thắng, là tôn quí, là cao siêu, là vi diệu, là cao cả, là không gì trên, không gì bằng, không gì hơn.
Lại nữa, Thiện Hiện! Trụ Bồ-tát thừa, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... đối với tất cả thiện căn tương ưng với bố thí tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa của tất cả Như Lai ứng Chánh đẳng giác ở quá khứ, vị lai, hiện tại trong mười phương thế giới có được, ở khoảng giữa, từ sơ phát tâm đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, sau khi nhập Vô-dư-y Niết-bàn cho đến pháp diệt; hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn; hoặc vô lượng, vô biên Phật pháp; hoặc thiện căn công đức của các Thanh-văn, Độc-giác, Bồ-tát; hoặc ba sự nghiệp phước đức là thí tánh, giới tánh, tu tánh và các thiện pháp khác của các hữu tình khác, nhóm tụ cân nhắc suy lường, phát khởi ngay tâm tùy hỷ hồi hướng không điên đảo. Nên nghĩ thế này: Như giải thoát sắc cũng như vậy; như giải thoát thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy; như giải thoát nhãn xứ cũng như vậy; như giải thoát nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng như vậy; như giải thoát sắc xứ cũng như vậy; như giải thoát thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng như vậy; như giải thoát nhãn giới cũng như vậy; như giải thoát sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng như vậy; như giải thoát nhĩ giới cũng như vậy; như giải thoát thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cũng như vậy; như giải thoát tỷ giới cũng như vậy; như giải thoát hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cũng như vậy; như giải thoát thiệt giới cũng như vậy; như giải thoát vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cũng như vậy; như giải thoát thân giới cũng như vậy; như giải thoát xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng như vậy; như giải thoát ý giơí cũng như vậy; như giải thoát pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng như vậy; như giải thoát địa giới cũng như vậy; như giải thoát thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng như vậy; như giải thoát vô minh cũng như vậy; như giải thoát hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng như vậy; như giải thoát bố thí Ba-la-mật-đa cũng như vậy; như giải thoát tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng như vậy; như giải thoát pháp không nội cũng như vậy; như giải thoát pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bổn tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng như vậy; như giải thoát chơn như cũng như vậy; như giải thoát pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cũng như vậy; như giải thoát Thánh đế khổ cũng như vậy; như giải thoát Thánh đế tập, diệt, đạo cũng như vậy; như giải thoát bốn tịnh lự cũng như vậy; như giải thoát bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng như vậy; như giải thoát tám giải thoát cũng như vậy; như giải thoát tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng như vậy; như giải thoát bốn niệm trụ cũng như vậy; như giải thoát bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng như vậy; như giải thoát pháp môn giải thoát không cũng như vậy; như giải thoát pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng như vậy; như giải thoát năm loại mắt cũng như vậy; như giải thoát sáu phép thần thông cũng như vậy; như giải thoát mười lực Phật cũng như vậy; như giải thoát bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng như vậy; như giải thoát pháp không quên mất cũng như vậy; như giải thoát tánh luôn luôn xả cũng như vậy; như giải thoát trí nhất thiết cũng như vậy; như giải thoát trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng như vậy; như giải thoát tất cả pháp môn Đà-la-ni cũng như vậy; như giải thoát tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng như vậy; như giải thoát giới uẩn cũng như vậy; như giải thoát định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn cũng như vậy; như giải thoát tất cả pháp ở quá khứ, vị lai, hiện tại cũng như vậy; như giải thoát tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở quá khứ vị lại hiện tại trong mười phương thế giới cũng như vậy; như giải thoát tất cả Bồ-đề Niết-bàn của Phật cũng như vậy; như giải thoát vô số, vô lượng, vô biên Phật pháp cũng như vậy; như giải thoát tất cả đệ tử Phật cũng như vậy; như giải thoát tất cả các căn thành thục của đệ tử Phật cũng như vậy; như giải thoát Bát-niết-bàn của tất cả đệ tử Phật cũng như vậy; như giải thoát tất cả các pháp của đệ tử Phật cũng như vậy; như giải thoát tất cả Độc-giác cũng như vậy; như giải thoát các căn thành thục của Độc-giác cũng như vậy; như giải thoát tất cả Bát-niết-bàn của Độc-giác cũng như vậy; như giải thoát tất cả các pháp của Độc-giác cũng như vậy; như giải thoát tất cả pháp tánh của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và đệ tử Độc-giác của Phật cũng như vậy; như giải thoát tất cả hữu tình cũng như vậy; như giải thoát tất cả pháp tánh cũng như vậy; như giải thoát tất cả tùy hỷ hồi hướng cũng như vậy. Như các pháp tánh không trói, không mở, không nhiễm, không tịnh, không bắt đầu, không chấm dứt, không sanh, không diệt, không thủ, không xả, ta đối với thiện căn công đức như thế, khởi ngay sự tùy hỷ hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột. Tùy hỷ như vậy chẳng phải là năng tùy hỷ, không phải là sở tùy hỷ. Vì hồi hướng như thế chẳng phải là năng hồi hướng, không phải là sở hồi hướng. Vì đã khởi sự tùy hỷ hồi hướng như thế, nên chẳng phải là chuyển, chẳng phải dứt, không sanh, diệt.
Này Thiện Hiện! Sự tùy hỷ hồi hướng của đại Bồ-tát ấy là tối thắng, là tôn quí, là cao siêu, là vi diệu, là cao cả, là không gì trên, không gì bằng, không gì hơn.
Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát thành tựu tùy hỷ hồi hướng như thế, thì mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu hướng đến Đại-thừa, thì các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... giả sử có khả năng đối với tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng đệ tử ở vô số thế giới hiện tại trong mười phương dùng hữu tướng làm phương tiện, hữu sở đắc làm phương tiện, suốt đời cung kính cúng dường, tôn trọng, khen ngợi; lại đem các thứ y phục, ẩm thực, đồ nằm, thuốc men và các thứ đồ dùng sinh sống cùng các nhạc cụ tốt khác mà cung cấp. Chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng đệ tử kia, sau khi nhập Niết-bàn, thâu Xá-lợi dùng bảy báu xây dựng các tháp cao rộng, ngày đêm siêng năng, cung kính lễ bái, đi nhiễu bên phải; lại dùng hết các vật sở hữu như tràng hoa, hương xoa, hương rải, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc đèn sáng tuyệt diệu, cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi; lại dùng hữu tướng làm phương tiện, hữu sở đắc làm phương tiện, tu tập thiện căn tương ưng với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa v.v...; lại dùng hữu tướng làm phương tiện, hữu sở đắc làm phương tiện, đối với thiện căn công đức của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử, phát sanh tùy hỷ hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột. Và có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... phát tâm hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, dùng vô tướng làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện tu tập thiện căn tương ưng với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa v.v... lại dùng vô tướng làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, đối với thiện căn công đức của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử, phát sanh tùy hỷ hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy do nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa, phương tiện thiện xảo, tùy hỷ hồi hướng, nên hơn sự tùy hỷ hồi hướng đã phát khởi trước gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp trăm ngàn lần, gấp ức lần, gấp trăm ức lần, gấp ngàn ức lần, gấp trăm ngàn ức lần, gấp vô số trăm ngàn ức lần, gấp bội số, bội toán, bội tịnh, bội dụ cho đến bội cực số. Cho nên nói tùy hỷ hồi hướng như thế là tối thắng, là tôn quí, là cao siêu, là vi diệu, là cao cả, là không gì trên, không gì bằng, không gì hơn. Vì vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát phát tâm hướng đến Đại-thừa đều nên dùng vô tướng làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện tu học thiện căn tương ưng với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa v.v... và nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa, phương tiện thiện xảo, đối với thiện căn công đức của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử, phát sanh tùy hỷ hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột.

Tập 04

Quyển 172

Phẩm Khen Bát Nhã 1

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đã nói như vậy, há chẳng phải Bát-nhã-ba-la-mật-đa?
Phật dạy: Này Xá Lợi Tử! Đã nói như vậy tức là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Khi ấy, Xá Lợi Tử lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế có khả năng chiếu sáng, rốt ráo thanh tịnh. Bạch Thế Tôn! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế đều nên lễ kính, nhơn thiên chúng con đều khâm phụng. Bạch Thế Tôn! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế không bị nhiễm trước, nên các pháp trong thế gian chẳng thể làm ô uế được. Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, xa lìa tất cả mê mờ trong ba cõi, có khả năng dứt trừ những sự tối tăm của phiền não. Bạch Thế Tôn! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế rất là cao cả, vì ở trong tất cả loại pháp thuộc về giác ngộ, rất là tôn quí. Bạch Thế Tôn! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế có khả năng làm cho an ổn, vĩnh viễn dứt trừ tất cả sự khiếp sợ, bức não tai họa bất ngờ. Bạch Thế Tôn! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế có khả năng phát ánh sáng nhiếp thọ các hữu tình, khiến chứng đắc năm loại mắt. Bạch Thế Tôn! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế có khả năng chỉ bày trung đạo, khiến kẻ lạc đường lìa khỏi nhị biên. Bạch Thế Tôn! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế có khả năng phát sanh trí nhất thiết trí, vĩnh viễn đoạn trừ tất cả các phiền não tương tục và tập khí. Bạch Thế Tôn! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế là mẹ của các đại Bồ-tát, tất cả Phật pháp mà Bồ-tát đã tu đều từ đây phát sanh. Bạch Thế Tôn! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế bất sanh, bất diệt, tự tánh không. Bạch Thế Tôn! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế xa lìa sanh tử, chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Bạch Thế Tôn! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế có khả năng làm chỗ nương tựa, bố thí các pháp bảo. Bạch Thế Tôn! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế có khả năng thành tựu mười lực Phật, chẳng bị khuất phục. Bạch Thế Tôn! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế có khả năng chuyển pháp luân vô thượng gồm ba chuyển, mười hai hành tướng, đạt tất cả pháp, không chuyển trở lại. Bạch Thế Tôn! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế có khả năng chỉ rõ tánh không điên đảo của các pháp, hiển bày pháp không không tánh tự tánh.
Bạch Thế Tôn! Trụ Bồ-tát thừa, hoặc Độc-giác thừa, hoặc Thanh-văn thừa, các loại hữu tình đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, nên trụ như thế nào?
Phật dạy: Này Xá Lợi Tử! Các hữu tình ấy đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nên như Phật trụ, cúng dường lễ kính, tư duy Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên như cúng dường lễ kính, tư duy Phật Bạt-già-phạm. Vì sao? Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng khác Phật Bạt-già-phạm; Phật Bạt-già-phạm chẳng khác Bát-nhã-ba-la-mật-đa; Bát-nhã-ba-la-mật-đa tức là Phật Bạt-già-phạm, Phật Bạt-già-phạm tức là Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả đại Bồ-tát, Độc-giác, A-la-hán, Bất-hoàn, Nhất-lai, Dự-lưu v.v... đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần thông ở thế gian, đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà được xuất hiện.
Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bổn tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà được xuất hiện. Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà được xuất hiện.
Khi ấy, trời Đế Thích bỗng nghĩ: Nay Xá Lợi Tử do nhân duyên gì mà hỏi việc này?
Khi ấy, Xá Lợi Tử biết tâm niệm ấy liền bảo: Này Kiều Thi Ca! Vì các đại Bồ-tát được Bát-nhã-ba-la-mật-đa và phương tiện thiện xảo nhiếp thọ, nên có khả năng đối với tất cả thiện căn công đức của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở quá khứ, vị lai, hiện tại trong mười phương thế giới, ở khoảng giữa từ sơ phát tâm đến khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu cho đến pháp diệt; hoặc thiện căn công đức của chư Thanh-văn, Độc-giác, Bồ-tát và các loại hữu tình khác nhóm tụ cân nhắc suy lường, khởi ngay sự tùy hỷ hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột; do nhân duyên này cho nên hỏi việc này.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các đại Bồ-tát học Bát-nhã-ba-la-mật-đa vượt hơn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Bát-nhã Ba-la-mật-đa gấp vô lượng lần. Thí như trăm ngàn kẻ sanh ra đã bị mù, không có người sáng mắt khéo dẫn đường, thì chẳng có thể đến gần đường chính, huống là có thể đi xa để đến thành lớn phong phú an lạc; bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Bát-nhã Ba-la-mật-đa ấy cũng như vậy. Các kẻ mù bẩm sinh, nếu không có Bát-nhã-ba-la-mật-đa là người sáng mắt dẫn đường, thì còn chẳng hướng đến đường chánh Bồ-tát, huống là có thể được vào thành trí nhất thiết.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa như thế, vì do Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nhiếp thọ, nên gọi là kẻ có mắt; lại vì do Bát-nhã-ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên bố thí v.v... tất cả đều có tên là đáo bỉ ngạn.
Khi ấy, trời Đế Thích liền bạch cụ thọ Xá Lợi Tử: Như Đại đức đã nói bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa, cốt yếu là do Bát-nhã-ba-la-mật-đa nhiếp thọ, mới được gọi là đáo bỉ ngạn, thì đâu có thể nói: Cốt yếu là vì do bố thí Ba-la-mật-đa nhiếp thọ mà năm cái khác được có tên là đáo bỉ ngạn; cốt yếu là vì do tịnh giới Ba-la-mật-đa nhiếp thọ mà năm cái khác được có tên là đáo bỉ ngạn; cốt yếu là vì do an nhẫn Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, nên năm cái khác được có tên là đáo bỉ ngạn; cốt yếu là vì do tinh tấn Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, nên năm cái khác được có tên là đáo bỉ ngạn; cốt yếu là vì do tịnh lự Ba-la-mật-đa nhiếp thọ mà năm cái khác được có tên là đáo bỉ ngạn. Hoặc có nhơn duyên nào khác mà chỉ khen ngợi Bát-nhã vượt hơn năm Ba-la-mật-đa khác?
Xá Lợi Tử đáp: Chẳng phải vậy! Chẳng phải vậy! Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì Chẳng phải do bố thí Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, mà năm cái khác được tên là đáo bỉ ngạn; vì chẳng phải do tịnh giới Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, mà năm cái khác được tên là đáo bỉ ngạn; vì chẳng phải do an nhẫn Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, mà năm cái khác được tên là đáo bỉ ngạn; vì chẳng phải do tinh tấn Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, mà năm cái khác được tên là đáo bỉ ngạn; vì chẳng phải do tịnh lự Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, mà năm cái khác được tên là đáo bỉ ngạn, vì chỉ do Bát-nhã-ba-la-mật-đa nhiếp thọ, nên năm cái khác được tên là đáo bỉ ngạn. Vì sao? Vì các đại Bồ-tát cốt yếu là trụ Bát-nhã-ba-la-mật-đa mới có khả năng viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng phải trụ năm cái khác có thể thành tựu việc ấy. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa đối với năm thứ trước là tối thắng, là tôn quí, là cao siêu, là vi diệu, là cao cả, là không gì trên, không gì bằng, không gì hơn.
Lúc bấy giờ, Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế nào?
Phật dạy: Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát sắc mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát thọ, tưởng, hành, thức mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát sắc mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát thọ, tưởng, hành, thức mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?
Này Xá Lợi Tử! Vì sắc không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát sắc, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì thọ, tưởng, hành, thức không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát thọ, tưởng, hành, thức, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát nhãn xứ mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát nhãn xứ mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?
Này Xá Lợi Tử! Vì nhãn xứ không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát nhãn xứ, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát sắc xứ mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát sắc xứ mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?
Này Xá Lợi Tử! Vì sắc xứ không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát sắc xứ mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát nhãn giới mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát nhãn giới mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?
Này Xá Lợi Tử! Vì nhãn giới không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát nhãn giới mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát nhĩ giới mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát nhĩ giới mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?
Này Xá Lợi Tử! Vì nhĩ giới không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát nhĩ giới mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát tỷ giới mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát tỷ giới mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?
Này Xá Lợi Tử! Vì tỷ giới không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát tỷ giới mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát thiệt giới mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát thiệt giới mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?
Này Xá Lợi Tử! Vì thiệt giới không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát thiệt giới mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát thân giới mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát thân giới mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?
Này Xá Lợi Tử! Vì thân giới không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát thân giới mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát ý giới mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát ý giới mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?
Này Xá Lợi Tử! Vì ý giới không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát ý giới mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát địa giới mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát địa giới mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?
Này Xá Lợi Tử! Vì địa giới không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát địa giới mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát thủy, hỏa, phong, không, thức giới, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát vô minh mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát vô minh mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?
Này Xá Lợi Tử! Vì vô minh không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát vô minh mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát bố thí Ba-la-mật-đa mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát bố thí Ba-la-mật-đa mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?
Này Xá Lợi Tử! Vì bố thí Ba-la-mật-đa không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát bố thí Ba-la-mật-đa mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát pháp không nội mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát pháp không nội mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bổn tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?
Này Xá Lợi Tử! Vì pháp không nội không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát pháp không nội mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát chơn như mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát chơn như mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?
Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát chơn như mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát Thánh đế khổ mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát Thánh đế tập, diệt, đạo mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát Thánh đế khổ mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát Thánh đế tập, diệt, đạo mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?
Này Xá Lợi Tử! Vì Thánh đế khổ không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát Thánh đế khổ mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì Thánh đế tập, diệt, đạo không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát Thánh đế tập, diệt, đạo, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát bốn tịnh lự mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát bốn tịnh lự mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?
Này Xá Lợi Tử! Vì bốn tịnh lự không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát bốn tịnh lự mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát bốn vô lượng, bốn định vô sắc, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
                                                                                                 

 

Quyển thứ 172

Hết

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2014(Xem: 8431)
Pháp danh : Trừng Thành Pháp tự : Chí Thông, Pháp hiệu : Thích Giác Tiên. Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42 Thế danh : Ngài họ Nguyễn Duy húy là Quyển. Thọ sanh năm Canh thìn, niên hiệu Tự Đức đời thứ 33 (1879). Chánh quán làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1883, lên bốn tuổi thì song thân đều mất. Ngài được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Nhờ bẩm chất thông minh nên thân thuộc cho theo Nho học một thời gian. Nhận thấy giáo lý Phật đà mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát ; từ đó, ngài xin với thân thuộc xuất gia đầu Phật. Năm 1890, được 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với tổ Tâm Tịnh.
01/10/2014(Xem: 8507)
Phật Giáo Việt Nam thời cận đại đã viết lên trang lịch sử bằng máu, xương của Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử. Dòng lịch sử ấy đã nêu cao tấm gương hy sinh bất khuất trước những đàn áp, bạo lực, súng đạn, nhà tù và lựu đạn. Phải chăng đây là một chặng đường lịch sử oai hùng mà Phật Giáo Việt Nam đã biểu tỏ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi để vực dậy một nền văn hóa đã bị sụp đổ bởi một chế độ tha hóa, ngoại lai xâm nhập vào quê hương Việt Nam.
01/10/2014(Xem: 10192)
Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.
09/09/2014(Xem: 14107)
Hòa Thượng Thích Giác Thông, tục danh Đổ Văn Bé, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1939 tại Mỹ Hòa Hưng, Huyện Châu Thành, An Giang, Long Xuyên. Trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân Phụ là Cụ Ông Đổ Nhựt Thăng, Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Khiên, Hòa Thuợng là người anh cả trong số 6 anh em ( 3 trai, 3 gái ), được nuôi dưỡng trong một gia đình nông dân hiền lành, có truyền thống đạo đức, nên từ nhỏ Hòa Thượng đã là người sớm có tư chất hiền lương, có tâm thương người mến vật, là con có hiếu với ông bà cha mẹ.
06/09/2014(Xem: 8265)
Không biết đây là lá thư thứ mấy con đã viết mà không bao giờ gởi đi, bởi vì con biết thư có vượt ngàn dặm trùng dương bay về thì Thầy cũng vẫn không cầm đọc được, chứng bịnh Parkinson đã làm cho hai tay Thầy run nhiều quá nhưng nhân mùa Phật Đản nhớ đến Thầy, con lại muốn viết. Thời gian sau này, con vẫn theo dõi thường xuyên sức khỏe của Thầy, con buồn vô cùng, Thầy đã bị bịnh, không thoát khỏi qui luật sinh, lão, bịnh mà con thì ở xa quá, không thăm viếng cận kề Thầy được như ngày xưa nữa !
05/09/2014(Xem: 16889)
Còn đây của báu trong nhà Không là ngọc bảo, không là hoàng kim Bình thường chiếc áo tràng lam Mà sao quý vượt muôn ngàn ngọc châu! Những năm cầu thực dãi dầu Sớm mai tụng niệm, đêm thâu mật trì Dòng đời mãi cuốn con đi Về nương chốn tịnh có Thầy, có Ôn… Kinh truyền ban phát khuyên lơn
02/09/2014(Xem: 11890)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
12/08/2014(Xem: 16607)
Cô là 1 nữ sinh trẻ nhất của Sài Gòn đã anh dũng ngã xuống trước họng súng của quân thù tàn bạo trong 1 buổi sáng mùa thu năm 1963 trước cửa chợ Bến Thành, với hàng ngàn sinh viên, học sinh và nhân dân phật tử trước cửa chợ Bến Thành. Và ngay sau đó, Thành hội sinh viên học sinh Sài Gòn đã quyên góp vận động ủng hộ xây bức tượng thờ người nữ học sinh anh hùng tuổi 15 đặt ngay công trường Diên Hồng trước cửa chính chợ Bến Thành ngày nay với sự chứng kiến của hàng ngàn người dân, phật tử thành phố và sinh viên, học sinh.
09/08/2014(Xem: 12749)
Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7). Nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé, vì vậy Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm. Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng cao đẳng tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ tú tài toàn phần tại Trường Khải Định - Huế (nay là Trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm
03/08/2014(Xem: 6836)
Lễ nhập quan được cử hành tại Bình Quang Ni tự vào lúc 18g00 cùng ngày. Lễ phúng viếng bắt đầu từ 8g00 ngày 9-7 Giáp Ngọ (4-8-2014). Lễ truy niệm được cử hành vào lúc 4g00 sáng nay, 12-7 Giáp Ngọ (7-8-2014); lễ phụng tống kim quan vào lúc 6g00 sáng cùng ngày. Nhục thân cố Ni trưởng tới đài hỏa táng núi Dinh, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu làm lễ trà-tỳ. Tro cốt của Ni trưởng sẽ được nhập bảo tháp tại Bình Quang Ni tự. Được biết, cố NT.Thích nữ Huyền Tông thế danh Dương Thị Ngọc Cúc, sinh năm 1918 tại P.Đức Thắng, TP.Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Vì sớm giác ngộ lý vô thường, nên năm 17 tuổi (1936), Ni trưởng cùng người cô của mình là cố Ni trưởng Huyền Học quyết tâm vào Sài Gòn xuất gia với cố Ni trưởng Diệu Tịnh tại chùa Hải Ấn. Đến năm 1940, Ni trưởng được thọ giới Cụ túc tại Giới đàn chùa Vạn An (tỉnh Sa Đéc). Suốt hơn 2/3 thế kỷ tu học và hành đạo, Ni trưởng đã tham gia vào phong trào đấu tranh yêu nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1945, đấu tranh đòi quyền bình đẳng tô
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]