Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 290: Phẩm Trước Và Chẳng Trước Tướng 04

12/07/201511:12(Xem: 14521)
Quyển 290: Phẩm Trước Và Chẳng Trước Tướng 04

Tập 06

 Quyển 290

 Phẩm Trước Và Chẳng Trước Tướng 04
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí




 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành trí nhất thiết là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành trí nhất thiết hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành trí nhất thiết hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành trí nhất thiết hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành trí nhất thiết hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của trí nhất thiết còn không có sở hữu huống là có trí nhất thiết hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng còn không có sở hữu huống là có trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành tất cả pháp môn Đà-la-ni là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni còn không có sở hữu huống là có tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa còn không có sở hữu huống là có tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành quả Dự-lưu là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả Dự-lưu hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả Dự-lưu hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả Dự-lưu hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả Dự-lưu hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của quả Dự-lưu còn không có sở hữu huống là có quả Dự-lưu hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán còn không có sở hữu huống là có quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành quả vị Độc-giác là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả vị Độc-giác hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả vị Độc-giác hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả vị Độc-giác hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả vị Độc-giác hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của quả vị Độc-giác còn không có sở hữu huống là có quả vị Độc-giác hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành tất cả hạnh đại Bồ-tát là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tất cả hạnh đại Bồ-tát hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tất cả hạnh đại Bồ-tát hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tất cả hạnh đại Bồ-tát hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tất cả hạnh đại Bồ-tát hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của tất cả hạnh đại Bồ-tát còn không có sở hữu huống là có tất cả hạnh đại Bồ-tát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật còn không có sở hữu huống là có quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành sắc viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu sắc viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là sắc; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu thọ, tưởng, hành, thức viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là thọ, tưởng, hành, thức; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành nhãn xứ viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu nhãn xứ viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là nhãn xứ; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành sắc xứ viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu sắc xứ viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là sắc xứ; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành nhãn giới viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu nhãn giới viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là nhãn giới; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành nhĩ giới viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu nhĩ giới viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là nhĩ giới; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tỷ giới viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu tỷ giới viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là tỷ giới; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành thiệt giới viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu thiệt giới viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là thiệt giới; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành thân giới viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu thân giới viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là thân giới; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành ý giới viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu ý giới viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là ý giới; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành địa giới viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu địa giới viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là địa giới; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành thủy, hỏa, phong, không, thức giới viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu thủy, hỏa, phong, không, thức giới viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là thủy, hỏa, phong, không, thức giới; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành vô minh viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu vô minh viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là vô minh; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành bố thí Ba-la-mật-đa viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu bố thí Ba-la-mật-đa viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là bố thí Ba-la-mật-đa; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành pháp không nội viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu pháp không nội viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là pháp không nội; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.             

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành chơn như viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu chơn như viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là chơn như; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành Thánh đế khổ viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu Thánh đế khổ viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là Thánh đế khổ; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành Thánh đế tập, diệt, đạo viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu Thánh đế tập, diệt, đạo viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành bốn tịnh lự viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu bốn tịnh lự viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là bốn tịnh lự; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu bốn vô lượng, bốn định vô sắc viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tám giải thoát viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu tám giải thoát viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là tám giải thoát; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành bốn niệm trụ viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu bốn niệm trụ viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là bốn niệm trụ; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành pháp môn giải thoát không viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu pháp môn giải thoát không viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là pháp môn giải thoát không; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành mười địa Bồ-tát viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu mười địa Bồ-tát viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là mười địa Bồ-tát; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành năm loại mắt viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu năm loại mắt viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là năm loại mắt; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành sáu phép thần thông viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu sáu phép thần thông viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là sáu phép thần thông; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành mười lực Phật viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu mười lực Phật viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là mười lực Phật; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành pháp không quên mất viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu pháp không quên mất viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là pháp không quên mất; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tánh luôn luôn xả viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu tánh luôn luôn xả viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là tánh luôn luôn xả; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành trí nhất thiết viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu trí nhất thiết viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là trí nhất thiết; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tất cả pháp môn Đà-la-ni viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu tất cả pháp môn Đà-la-ni viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là tất cả pháp môn Đà-la-ni; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu tất cả pháp môn Tam-ma-địa viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.             

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành quả Dự-lưu viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu quả Dự-lưu viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là quả Dự-lưu; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành quả vị Độc-giác viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu quả vị Độc-giác viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là quả vị Độc-giác; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tất cả hạnh đại Bồ-tát viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu tất cả hạnh đại Bồ-tát viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là tất cả hạnh đại Bồ-tát; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.            

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Rất đặc biệt! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khéo vì các thiện nam tử, thiện nữ nhơn Đại-thừa, tuyên thuyết các loại trước và chẳng trước tướng.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Như ông đã nói, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khéo vì các thiện nam tử, thiện nữ nhơn Đại-thừa, tuyên thuyết các loại trước và chẳng trước tướng, khiến cho người học Bát-nhã-ba-la-mật-đa lìa các nhiễm trước, mau đạt cứu cánh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành sắc trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành nhãn xứ trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành sắc xứ trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành nhãn giới trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành nhĩ giới trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tỷ giới trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành thiệt giới trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành thân giới trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành ý giới trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành địa giới trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành thủy, hỏa, phong, không, thức giới trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành vô minh trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành bố thí Ba-la-mật-đa trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành pháp không nội trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành chơn như trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành Thánh đế khổ trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành thánh đế tập, diệt, đạo trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành bốn tịnh lự trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tám giải thoát trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành bốn niệm trụ trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành pháp môn giải thoát không trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành mười địa Bồ-tát trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 

Quyển thứ 290

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/10/2019(Xem: 3800)
Hòa Thượng Thích Huệ Quang (1927 - 2009) - Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam - Chứng minh Ban trị sự Phật giáo tỉnh Khánh Hòa - Huynh Trưởng Môn phong Tổ đình Nghĩa Phương - Viện chủ Chùa Đông Phước, Phước Long, TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa
20/10/2019(Xem: 4723)
Hoà thượng Thượng HOÀN Hạ QUAN, thế danh Phạm Ngọc Thơ. Pháp danh NHƯ CỤ THIỆN. Pháp tự GIẢI TOÀN NĂNG. Pháp hiệu THÍCH HOÀN QUAN. Sinh ngày 16-09-1928 (Năm Mậu Thìn) tại làng Phước Long, nay là thôn Hoà Bình xã Nghĩa Hoà huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Song thân của Ngài là Phạm Công Phạm Khánh Lâm và Cụ bà là Trần Thị Thưởng. Cụ Ông và Cụ bà đã hạ sinh được 6 người con, gồm 2 trai 4 gái, Ngài là người con thứ 5 trong gia đình.
20/10/2019(Xem: 2309)
Hòa thượng thế danh là Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Khánh Anh, Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi nhỏ, Ngài theo học Nho, luôn tỏ ra là một Nho sinh xuất sắc. Năm 21 tuổi (1916) nhận thấy cảnh thế phù du, cuộc đời là vô thường, giả tạm, Ngài quy y thọ giới tại chùa Cảnh Tiên. Năm 22 tuổi (1917) Ngài được nhập chúng tu học ở chùa Quang Lộc trong tỉnh, được ban pháp danh Chơn Húy. Sẵn có căn bản Hán học vững chắc, Ngài thâm nhập kinh tạng rất mau chóng. Ngài lần lượt thọ giới Sa Di và nghiên cứu Kinh, Luật, Luận rồi thọ giới Tỳ Kheo Bồ Tát với pháp hiệu Khánh Anh. Khi tròn 30 tuổi, Ngài trở thành một vị giảng sư Phật học nổi tiếng.
20/10/2019(Xem: 5422)
Hòa thượng thế danh là Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Khánh Anh, Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi nhỏ, Ngài theo học Nho, luôn tỏ ra là một Nho sinh xuất sắc. Năm 21 tuổi (1916) nhận thấy cảnh thế phù du, cuộc đời là vô thường, giả tạm, Ngài quy y thọ giới tại chùa Cảnh Tiên. Năm 22 tuổi (1917) Ngài được nhập chúng tu học ở chùa Quang Lộc trong tỉnh, được ban pháp danh Chơn Húy. Sẵn có căn bản Hán học vững chắc, Ngài thâm nhập kinh tạng rất mau chóng. Ngài lần lượt thọ giới Sa Di và nghiên cứu Kinh, Luật, Luận rồi thọ giới Tỳ Kheo Bồ Tát với pháp hiệu Khánh Anh. Khi tròn 30 tuổi, Ngài trở thành một vị giảng sư Phật học nổi tiếng.
20/10/2019(Xem: 5070)
Cố HT. Bửu Chơn tên thật Phạm Văn Tông, sinh ngày 25/10/1914, tại làng An Hội ‒ Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Ngài là con của cụ ông Phạm Văn Dư và cụ bà Lê Thị Dương. Tuổi thơ, ngài học ở trường làng, trường Tây, nhờ siêng năng, chăm học nên đã đậu bằng Preme. Năm 1930, ngài sang Nam Vang làm công chức trong cơ quan Việt Nha địa chính.
20/10/2019(Xem: 4391)
Hòa thượng Phước Hậu, pháp húy Trừng Thịnh, pháp tự Như Trung, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 42. Ngài thế danh Lê Văn Gia, sinh năm Bính Dần(1866), nhằm Tự Đức thứ 15, tại xã An Tiêm, huyện Đồng Quan, tỉnh Thái Bình.
20/10/2019(Xem: 5607)
Hòa thượng Pháp húy Ngộ Trí, đạo hiệu Thích Huệ Hưng, thế danh Nguyễn Thành Chẩm, thuộc dòng Thiền Lâm Tế đời thứ 39, là đệ tử Sư tổ Vạn An (Sa Đéc). Ngài sinh năm Đinh Tỵ (1917) tại làng Mỹ Thọ, quận Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ là cụ Nguyễn Minh Biện, pháp danh Minh Chiếu, thân mẫu là cụ Trần Thị Mậu, pháp danh Diệu Thiệt. Năm 62 tuổi, cụ bà xuất gia thọ giới Sa di ni.
20/10/2019(Xem: 4165)
Quốc sư tên thật là Nguyễn Tấn Giao, sinh năm Kỷ Tỵ (1869) tại làng Phú Thành, phủ An Nhơn, nay là ấp Phú Thành, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ Nguyễn Chánh Niệm, tự Hòa Bình, thân mẫu là cụ Nguyễn Thị Lãnh, ông bà đều là những Phật tửthuần thành. Năm 12 tuổi (1881), Ngài được cha mẹ cho phép xuất giatại chùa Thập Tháp, thọ giới với Hòa thượng Chí Tịnh (Minh Lý) được ban pháp hiệu là Phước Huệ. Một thời gian sau, Ngài được Bổn sư cho tới chùa Tịnh Lâm ở huyện Phù Cát, Bình Định theo học với Hòa thượng chùa Châu Long là Ngài Từ Mẫn. Năm 19 tuổi, Ngài trở về giữ chức Thủ khố của Tổ đình Thập Tháp. Năm 20 tuổi Ngài vào chùa Từ Quang ở Đá Trắng huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên theo học với Hòa thượng Luật Truyền (Pháp Chuyên). Ngài thọ đại giới năm 1889 và đắc pháp năm 1892 với Hòa thượng Luật Truyền.
20/10/2019(Xem: 4462)
Hòa Thượng Thích Mật Thể (1912 - 1961) Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
26/09/2019(Xem: 23010)
Ẩn mình trong dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ là xứ sở Bhutan, một quốc gia nhỏ bé nằm phía sau dãy Hy Mã Lạp Sơn, giống như Tây Tạng, một địa chỉ tâm linh huyền bí và khép kín với thế giới bên ngoài. Đặc biệt đây là một đất nước lấy chỉ số thu nhập GDP không phải là tiền bạc mà là hạnh phúc của con người. Tu Viện Quảng Đức sẽ tổ chức chuyến hành hương thăm viếng Bhutan và Tích Lan từ ngày 26/9 đến 12/10/2019, lệ phí trọn gói: $6,500, số khách giới hạn, xin quý Phật tử hoan hỷ đăng ký sớm. Hạn chót đăng ký và đóng tiền đầy đủ: 25/7/2019. Chuyến đi do Thượng Tọa Trụ Trì Thích Nguyên Tạng làm trưởng đoàn cùng với Đạo Hữu Tony Thạch (giám đốc công ty Triumph Tour) làm trợ lý cho Thầy để lo các công việc cần thiết. Xin quý Phật tử xa gần liên lạc về Tu Viện Quảng Đức (03.9357 3544 hoặc email:[email protected]) để ghi danh tham dự chuyến hành hương chiêm bái này. Chi tiết, xin quý Phật tử thường xuyên vào xem tại trang nhà: www.quangduc.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]