Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 303: Phẩm Ma Sự 01

12/07/201511:44(Xem: 13050)
Quyển 303: Phẩm Ma Sự 01

Tập 06

 Quyển 303

Phẩm Ma Sự 01

Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm

Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí


 

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Phật đã khen ngợi công đức đã có của các thiện nam tử, thiện nữ nhơn vì cầu chứng quả vị giác ngộ cao tột, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật.

Bạch Thế Tôn! Vì sao thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy vì chứng quả vị giác ngộ cao tột, trong những lúc tu hành lại bị ma sự làm trở ngại?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ưa nói pháp yếu mà biện tài chẳng sanh ngay thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát ấy ưa nói pháp yếu mà biện tài chẳng sanh thì gọi đó là ma sự?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa việc tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó được viên mãn; việc tu tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa khó được viên mãn, do nhân duyên này, đại Bồ-tát ấy ưa nói pháp yếu mà biện tài chẳng sanh thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ưa tu hạnh thù thắng mà biện tài chậm phát sanh thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát ấy ưa tu hạnh thù thắng mà biện tài chậm phát sanh mà đó là ma sự?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy tu hành bố thí Ba-la-mật-đa; tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vì không có phương tiện quyền xảo, nên biện tài chậm phát sanh. Do nhân duyên này nên đại Bồ-tát ấy ưa tu hạnh thù thắng mà biện tài chậm phát sanh. Nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi sao chép kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà vươn vai ngáp dài thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi sao chép kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà bỗng nhiên cười giỡn thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi sao chép kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà khinh miệt nhau thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát .

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi sao chép kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà thân tâm nhiễu loạn thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi sao chép kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà tâm sanh hiểu sai, văn cú đảo lộn thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi sao chép kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà bỗng dưng có sự việc xảy ra khiến không hoàn tất được thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi sao chép kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà bỗng nhiên nghĩ thế này: "Ta đối với kinh này chẳng được bổ ích, sao chép làm gì", liền bỏ đi thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, nói, nghe kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà vươn vai ngáp dài thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, nói, nghe kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà bỗng nhiên giỡn cười thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, nói, nghe kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà khinh miệt nhau thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, nói, nghe kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà thân tâm nhiễu loạn thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, nói, nghe kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà tâm sanh hiểu sai, văn cú đảo lộn thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, nói, nghe kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà bỗng dưng có sự việc xảy ra khiến không hoàn tất được thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, nói, nghe kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà bỗng nhiên sanh ý nghĩ thế này: "Ta đối với kinh này chẳng được bổ ích, thì cần gì phải khổ nhọc liền bỏ đi, thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy đối với kinh sâu xa này chẳng được bổ ích mà liền bỏ đi?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy ở đời quá khứ từ lâu chưa tu hành Bát-nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa cho nên đối Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này chẳng được bổ ích nên liền bỏ đi.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, liền nghĩ: Chúng ta đối với pháp này chẳng được thọ ký, cần gì phải nghe, nên tâm chẳng thanh tịnh, liền rời khỏi chỗ ngồi bỏ đi thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì ở trong kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, chẳng thọ ký cho họ để họ bỏ đi?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Bồ-tát chưa nhập Chánh tánh ly sanh thì chẳng nên thọ ký họ thành đại giác ngộ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, nghĩ thế này: Trong này chẳng đề cập đến tên của chúng ta, thì nghe làm gì nên tâm chẳng thanh tịnh, liền rời khỏi chỗ ngồi bỏ đi thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì ở trong kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, chẳng nói đến tên của Bồ-tát ấy?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Bồ-tát chưa được thọ ký quả vị đại Bồ-đề thì đương nhiên chẳng nên nói đến tên của họ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn khi nghe nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, khởi sanh ý nghĩ thế này: Trong này không nói đến chỗ sanh, thành ấp, tụ lạc của chúng ta, thì cần gì phải nghe nên tâm chẳng thanh tịnh, liền rời khỏi chỗ ngồi bỏ đi thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì trong kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, chẳng nói đến chỗ sanh, thành ấp, tụ lạc của Bồ-tát ấy?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu Bồ-tát chưa được ghi thì chẳng nên nói đến chỗ sanh sai biệt của họ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tâm chẳng thanh tịnh mà bỏ đi thì tùy theo tâm chẳng thanh tịnh đã dấy khởi, nhàm chán kinh này mà bước đi ấy nhiều ít, kiếp số công đức giảm sút tương ứng; và gặt hái tội chướng ngại Bồ-đề kiếp số cũng tương ưng chịu tội ấy rồi, lại cũng với thời gian tương ứng, phát khởi chuyên cần tinh tấn cầu đạt đến quả vị giác ngộ cao tột mới có thể trở lại như xưa. Vì vậy, Bồ-tát nếu muốn mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột thì chẳng nên nhàm chán Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ thừa Bồ-tát, bỏ kinh điển Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa cầu học kinh điển khác thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì các thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy bỏ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa là cội gốc của trí nhất thiết trí mà vin vào cành lá các kinh điển khác, kết cuộc chẳng năng được đại giác ngộ.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Những kinh điển nào giống như cành lá, chẳng thể dẫn phát trí nhất thiết trí?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Có các kinh nói pháp tương ưng Nhị thừa là bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo và pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn tu học pháp đó đắc quả Dự-lưu, đắc quả Nhất-lai, đắc quả Bất-hoàn, đắc quả A-la-hán, đắc quả Độc-giác, chẳng đắc quả vị giác ngộ cao tột; đó được gọi là các kinh khác giống như cành lá, chẳng thể dẫn phát trí nhất thiết trí. Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa giống như cội gốc, có thế lực lớn, nhất định có khả năng dẫn phát trí nhất thiết trí. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy bỏ kinh điển Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, cầu học kinh điển khác, nhất định chẳng thể đạt được trí nhất thiết trí. Vì sao? Này Thiện Hiện! Kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, xuất sanh pháp công đức thế gian và xuất thế gian của tất cả đại Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát tu học Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tức là tu học tất cả pháp thế gian và xuất thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Thí như con chó đói bỏ thức ăn của chủ, lại theo kẻ tôi tớ mà kiếm ăn, ở đời vị lai, có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ thừa Bồ-tát bỏ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa cội gốc của tất cả Phật pháp mà cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa cũng giống như thế, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát

Lại nữa, Thiện Hiện! Thí như có người muốn tìm voi, tìm được voi rồi bỏ đi để theo dấu chân, theo ý ông thì sao, người ấy có trí chăng?

Thiện Hiện đáp: Người ấy vô trí.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Ở đời tương lai, có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ thừa Bồ-tát, bỏ tất cả căn bản Phật pháp là Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa cũng giống như thế, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Thí như có người muốn thấy biển cả, đã đến bờ biển rồi, trở lại xem nước ở dấu chân trâu, nghĩ thế này, nước trong biển cả cạn sâu nhiều ít, có bằng đây chăng, theo ý ông thì sao, người  ấy có trí chăng?

Thiện Hiện đáp: Người ấy vô trí.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vào đời tương lai, có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, bỏ căn bản của tất cả Phật pháp là Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa cũng lại như thế, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Như có người thợ, hoặc học trò của ông ta muốn tạo cung điện lớn như kích thước cung điện thù thắng của trời Đế Thích, thấy cung điện ấy rồi mà lại đo lường mô hình cung điện mặt trời, theo ý ông thì sao, người thợ ấy, hoặc học trò của ông ta có thể tạo cung điện lớn ngang với cung điện thù thắng của Đế Thích chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Dạ không!

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, người ấy có trí chăng?

Thiện Hiện đáp: Người ấy là hạng ngu si, vô trí.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vào đời tương lai, có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, muốn cầu quả vị giác ngộ cao tột mà lại bỏ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy để cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa cũng giống như thế. Theo ý ông thì sao, thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy có thể đắc quả Phật cao tột chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy có trí tuệ chăng?

Thiện Hiện đáp: Đó là hạng ngu si.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Như có người cầu thấy Chuyển Luân Thánh Vương, thấy rồi mà chẳng biết, nên bỏ đến nơi khác thấy tiểu vương phàm phu, chấp vào hình tướng ấy, nghĩ: Chuyển Luân Thánh Vương hình tướng oai đức cùng với vị này có gì khác. Theo ý ông thì sao, người ấy có trí chăng?

Thiện Hiện đáp: Người ấy vô trí.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vào đời tương lai, có thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa muốn cầu quả vị giác ngộ cao tột, mà bỏ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy lại cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa, cũng giống như thế. Theo ý ông thì sao, thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy có thể chứng đắc đại Bồ-đề chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy có trí huệ chăng?

Thiện Hiện đáp: Đó là hạng ngu si.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Như có người đói được thức ăn trăm vị mà bỏ đi để cầu ăn cơm của lúa hai tháng. Theo ý ông thì sao, người ấy có trí chăng?

Thiện Hiện đáp: Người ấy vô trí.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Ở đời tương lai, có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa mà bỏ kinh điển đại Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa; đối với kinh điển ấy muốn cầu trí nhất thiết trí cũng giống như vậy. Theo ý ông thì sao, thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy có trí tuệ chăng?

Thiện Hiện đáp: Đó là hạng ngu si.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Như có người nghèo được của báu vô giá mà bỏ đi để cầu thứ ngọc xấu, theo ý ông thì sao, người ấy có trí chăng?

Thiện Hiện đáp: Người ấy vô trí.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vào đời tương lai, có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa bỏ kinh điển đại Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa lại cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa; đối với kinh điển này, muốn cầu trí nhất thiết trí, cũng giống như vậy. Theo ý ông thì sao, thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy có trí tuệ chăng?

Thiện Hiện đáp: Đó là hạng ngu si.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa khi sao chép kinh đại Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa các biện tài tranh nhau phát khởi, ưa nói các thứ pháp môn sai khác, khiến việc sao chép Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng được hoàn tất, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát, đó là ưa nói bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã; ưa nói Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; ưa nói thọ trì, đọc tụng, tuyên thuyết; ưa nói việc khán bịnh, tu các phước nghiệp khác; ưa nói sắc, ưa nói thọ, tưởng, hành, thức; ưa nói nhãn xứ, ưa nói nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; ưa nói sắc xứ, ưa nói thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Ưa nói nhãn giới; ưa nói sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; ưa nói nhĩ giới; ưa nói thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; ưa nói tỷ giới; ưa nói hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; ưa nói thiệt giới; ưa nói vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; ưa nói thân giới; ưa nói xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; ưa nói ý giới; ưa nói pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; ưa nói địa giới, ưa nói thủy, hỏa, phong, không, thức giới; ưa nói vô minh; ưa nói hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; ưa nói bố thí Ba-la-mật-đa; ưa nói tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; ưa nói pháp không nội; ưa nói pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; ưa nói chơn như; ưa nói pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; ưa nói Thánh đế khổ, ưa nói Thánh đế tập, diệt, đạo; ưa nói bốn tịnh lự; ưa nói bốn vô lượng, bốn định vô sắc; ưa nói tám giải thoát; ưa nói tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; ưa nói bốn niệm trụ; ưa nói bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; ưa nói pháp môn giải thoát không; ưa nói pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; ưa nói mười địa Bồ-tát; ưa nói năm loại mắt, ưa nói sáu phép thần thông; ưa nói mười lực Phật; ưa nói bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; ưa nói pháp không quên mất, ưa nói tánh luôn luôn xả; ưa nói trí nhất thiết; ưa nói trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; ưa nói tất cả pháp môn Đà-la-ni, ưa nói tất cả pháp môn Tam-ma-địa; ưa nói quả Dự-lưu, ưa nói quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; ưa nói quả vị Độc-giác; ưa nói tất cả hạnh đại Bồ-tát; ưa nói quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa không có tướng ưa nói; vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa khó thể nghĩ bàn; vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa không suy ngẫm; vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa không sanh diệt; vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa không nhiễm tịnh; vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa không định loạn; vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa lìa danh ngôn; vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thể nói; vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như trước đã nói, các pháp đều không có sở hữu, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, khi sao chép kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, bị các pháp như vậy nhiễu loạn tâm họ, khiến chẳng hoàn tất, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có thể sao chép được chăng?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thể sao chép. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, tự tánh của sắc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của nhãn xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của sắc xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của nhãn giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của nhĩ giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của tỷ giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của thiệt giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của thân giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của ý giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của địa giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của vô minh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của pháp không nội không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của chơn như không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của Thánh đế khổ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của bốn tịnh lự không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của tám giải thoát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của bốn niệm trụ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của pháp môn giải thoát không không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của mười địa Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của năm loại mắt không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của sáu phép thần thông không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của mười lực Phật không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của pháp không quên mất không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của tánh luôn luôn xả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của trí nhất thiết không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của quả Dự-lưu không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của quả vị Độc-giác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của tất cả hạnh đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của các pháp đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên tức là vô tánh, mà vô tánh như vậy tức là Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng phải pháp vô tánh có thể chép vô tánh, vì vậy Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thể sao chép.

Này Thiện Hiện! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, nghĩ thế này, trong kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, vô tánh là sắc, vô tánh là thọ, tưởng, hành, thức; vô tánh là nhãn xứ, vô tánh là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; vô tánh là sắc xứ, vô tánh là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; vô tánh là nhãn giới vô tánh là sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; vô tánh là nhĩ giới, vô tánh là thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; vô tánh là tỷ giới, vô tánh là hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; vô tánh là thiệt giới, vô tánh là vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; vô tánh là thân giới, vô tánh là xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; vô tánh là ý giới, vô tánh là pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; vô tánh là địa giới, vô tánh là thủy, hỏa, phong, không, thức giới; vô tánh là vô minh, vô tánh là hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; vô tánh là bố thí Ba-la-mật-đa, vô tánh là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vô tánh là pháp không nội, vô tánh là pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; vô tánh là chơn như, vô tánh là pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; vô tánh là Thánh đế khổ, vô tánh là Thánh đế tập, diệt, đạo; vô tánh là bốn tịnh lự, vô tánh là bốn vô lượng, bốn định vô sắc; vô tánh là tám giải thoát, vô tánh là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; vô tánh là bốn niệm trụ, vô tánh là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; vô tánh là pháp môn giải thoát không, vô tánh là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; vô tánh là mười địa Bồ-tát; vô tánh là năm loại mắt, vô tánh là sáu phép thần thông; vô tánh là mười lực Phật, vô tánh là bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; vô tánh là pháp không quên mất, vô tánh là tánh luôn luôn xả; vô tánh là trí nhất thiết, vô tánh là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; vô tánh là tất cả pháp môn Đà-la-ni, vô tánh là tất cả pháp môn Tam-ma-địa; vô tánh là quả Dự-lưu, vô tánh là quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; vô tánh là quả vị Độc-giác; vô tánh là tất cả hạnh đại Bồ-tát; vô tánh là quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, sao chép Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, mà nghĩ thế này, ta dùng văn tự sao chép Bát-nhã-ba-la-mật-đa và chấp văn tự có thể sao chép Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì nên biết đó là ma sự của đại Bồ-tát. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì trong kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, sắc không có văn tự, thọ, tưởng, hành, thức không có văn tự; nhãn xứ không có văn tự, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không có văn tự; sắc xứ không có văn tự, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không có văn tự; nhãn giới không có văn tự, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không có văn tự; nhĩ giới không có văn tự, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không có văn tự; tỷ giới không có văn tự, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không có văn tự; thiệt giới không có văn tự, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không có văn tự; thân giới không có văn tự, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không có văn tự; ý giới không có văn tự, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không có văn tự; địa giới không có văn tự, thủy, hỏa, phong, không, thức giới không có văn tự; vô minh không có văn tự, hành, thức, danh, sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không có văn tự; bố thí Ba-la-mật-đa không có văn tự, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không có văn tự; pháp không nội không có văn tự, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không có văn tự; chơn như không có văn tự, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì không có văn tự; Thánh đế khổ không có văn tự, Thánh đế tập, diệt, đạo không có văn tự; bốn tịnh lự không có văn tự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không có văn tự; tám giải thoát không có văn tự, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không có văn tự; bốn niệm trụ không có văn tự, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo không có văn tự; pháp môn giải thoát không không có văn tự, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không có văn tự; mười địa Bồ-tát không có văn tự; năm loại mắt không có văn tự, sáu phép thần thông không có văn tự; mười lực Phật không có văn tự, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không có văn tự; pháp không quên mất không có văn tự, tánh luôn luôn xả không có văn tự; trí nhất thiết không có văn tự, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không có văn tự; tất cả pháp môn Đà-la-ni không có văn tự, tất cả pháp môn Tam-ma-địa không có văn tự; quả Dự-lưu không có văn tự, quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán không có văn tự; quả vị Độc-giác không có văn tự; tất cả hạnh đại Bồ-tát không có văn tự; quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không có văn tự thì vì vậy, chẳng nên chấp có văn tự có thể sao chép Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, khởi lên sự chấp trước như thế này, ở trong kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, không có văn tự là sắc, không có văn tự là thọ, tưởng, hành, thức; không có văn tự là nhãn xứ, không có văn tự là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; không có văn tự là sắc xứ, không có văn tự là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; không có văn tự là nhãn giới, không có văn tự là sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; không có văn tự là nhĩ giới, không có văn tự là thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; không có văn tự là tỷ giới, không có văn tự là hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; không có văn tự là thiệt giới, không có văn tự là vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc; thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ; không có văn tự là thân giới, không có văn tự là xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; không có văn tự là ý giới, không có văn tự là pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; không có văn tự là địa giới, không có văn tự là thủy, hỏa, phong, không, thức giới; không có văn tự là vô minh, không có văn tự là hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; không có văn tự là bố thí Ba-la-mật-đa, không có văn tự là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; không có văn tự là pháp không nội, không có văn tự là pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; không có văn tự là chơn như, không có văn tự là pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; không có văn tự là Thánh đế khổ, không có văn tự là Thánh đế tập, diệt, đạo; không có văn tự là bốn tịnh lự, không có văn tự là bốn vô lượng, bốn định vô sắc; không có văn tự là tám giải thoát, không có văn tự là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; không có văn tự là bốn niệm trụ, không có văn tự là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bẳy đẳng giác chi, tám chi thánh đạo; không có văn tự là pháp môn giải thoát không, không có văn tự là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; không có văn tự là mười địa Bồ-tát; không có văn tự là năm loại mắt, không có văn tự là sáu phép thần thông; không có văn tự là mười lực Phật, không có văn tự là bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; không có văn tự là pháp không quên mất, không có văn tự là tánh luôn luôn xả; không có văn tự là trí nhất thiết, không có văn tự là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; không có văn tự là tất cả pháp môn Đà-la-ni, không có văn tự là tất cả pháp môn Tam-ma-địa; không có văn tự là quả Dự-lưu, không có văn tự là quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; không có văn tự là quả vị Độc-giác; không có văn tự là tất cả hạnh đại Bồ-tát; không có văn tự là quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói!

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, khi sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, nếu khởi ý nghĩ về cõi nước, hoặc khởi ý nghĩ về thành ấp, hoặc khởi ý nghĩ về kinh đô, hoặc khởi ý nghĩ về nơi chốn, phương hướng thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, khi sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, nếu khởi ý tưởng Hòa thượng A-xà-lê, hoặc khởi ý tưởng về bạn bè đồng học, hoặc khởi ý tưởng cha mẹ, vợ con, hoặc khởi ý tưởng anh em, chị em, hoặc khởi ý tưởng bằng hữu thân thích, thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, khi sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, nếu khởi ý tưởng về ác tặc, ác thú, hoặc khởi ý tưởng ác nhân, ác quỷ, hoặc khởi ý tưởng chúng hội du hý, hoặc khởi ý tưởng dâm nữ hoan lạc, hoặc khởi ý tưởng báo ân, báo oán, hoặc khởi vô lượng ý tưởng khác, đều là do sự dẫn phát của ác ma làm chướng ngại Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, khi sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, mà được danh dự lớn, được cung kính cúng dường, y phục, ẩm thực, đồ nằm, thuốc men, của cải mà thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy thọ nhận và đắm trước, bỏ bê công việc thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, khi sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, có các ác quỷ cầm đủ các loại sách vở thế tục, hoặc kinh điển tương ưng Nhị thừa trá hiện làm bạn thân trao cho Bồ-tát, trong đó, rộng nói về việc tốt đẹp thế tục, hoặc lại rộng nói về uẩn, xứ, giới, đế, thật, duyên khởi, ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề, ba pháp môn giải thoát, bốn tịnh lự v.v… nói là kinh điển ý nghĩa thâm áo, phải chuyên cần tu học, bỏ kinh điển trước, thì các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa ấy, dùng phương tiện khéo léo, chẳng nên nhận lấy sách vở thế tục, hoặc kinh điển nhị thừa mà ác ma đã cho. Vì sao? Vì sách vở thế tục, kinh điển Nhị thừa chẳng thể dẫn phát trí nhất thiết trí, chẳng phải phương tiện thiện xảo đưa đến quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Trong kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, ta rộng nói đạo đại Bồ-tát phương tiện thiện xảo, nếu theo đó tinh cần tu học, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột. Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, mà bỏ kinh điển Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa để thọ học sách vở thế tục hoặc kinh Nhị thừa của ác ma thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp ưa thích lắng nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nhưng người thuyết pháp lại ham vui, biếng lười, chẳng muốn nói pháp thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp tâm chẳng ham vui, cũng chẳng biếng lười, ưa vì người nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa dùng phương tiện khuyến khích sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập nhưng người nghe pháp lại biếng lười ham vui, chẳng muốn nghe nhận thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp thì ưa thích lắng nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn người thuyết pháp lại ưa thích tha phương, chẳng vì người nói nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp thì thích vì người mà nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa dùng phương tiện khuyến khích sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập còn người nghe lại ưa thích tha phương, chẳng cần nghe nhận thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp thì đầy dẫy ác dục, quá ham mê danh lợi, y phục, ăn uống, đồ nằm, thuốc thang, đồ cúng dường của cải, còn người nghe pháp thì thiểu dục tri túc, tu hạnh viễn ly, dũng mãnh tinh tấn, đầy đủ niệm tuệ, chán sợ lợi dưỡng, cung kính, danh dự; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành sự nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp thiểu dục tri túc, tu hạnh viễn ly, dũng mãnh tinh tấn, đầy đủ niệm tuệ, chán sợ lợi dưỡng, cung kính, danh dự, còn người nghe pháp lại đầy dẫy ác dục, quá ham danh lợi, y phục, ăn uống, đồ nằm, thuốc men, đồ cúng dường của cải; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành sự nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp thực hành mười hai công đức đầu đà: Một là ở nơi thanh vắng; hai là thường khất thực; ba là mặc y phấn tảo; bốn là ăn một bữa; năm là nhất tọa thực; sáu là ăn đồ xin được; bảy là ở bãi tha ma; tám là ở chỗ trống; chín là ở dưới cây; mười là thường ngồi không nằm; mười một là chỉ dùng phu cụ nhận được; mười hai là chỉ có ba y, còn người nghe pháp chẳng thọ trì mười hai công đức đầu đà, đó là chẳng ở chỗ thanh vắng cho đến chẳng chịu chỉ có ba y; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp thì thực hành mười hai công đức đầu đà, đó là ở nơi thanh vắng cho đến chỉ thọ ba y, còn người thuyết pháp thì chẳng thọ mười hai công đức đầu đà, đó là chẳng ở nơi thanh vắng cho đến chẳng chỉ thọ ba y; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp thì có tín, có giới, có thiện ý, vui vẻ, muốn vì người nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa dùng phương tiện khuyến khích sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, còn người nghe lại không có tín, không có giới, không có thiện ý, vui vẻ không thích nghe thọ; hai bên không hòa hợp, chẳng thành nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp thì có tín, có giới, có thiện ý, vui vẻ, muốn cầu nghe hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, còn người thuyết pháp thì không có tín, không có giới, không có thiện ý, vui vẻ, chẳng muốn vì người nói; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp tâm không bõn sẽn, có thể xả tất cả, còn người nghe pháp thì tâm bỏn xẻn, chẳng thể xả bỏ; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp thì tâm không bõn sẽn, có thể xả bỏ tất cả, còn người thuyết pháp thì tâm bỏn xẻn, chẳng thể xả bỏ; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp thì muốn cúng dường cho người thuyết pháp y phục, ẩm thực, đồ nằm, thuốc men và các của cải khác, nhưng người thuyết pháp thì chẳng thích thọ dụng; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp thì muốn cung cấp y phục, ẩm thực, đồ nằm, thuốc men và các của cải khác cho người nghe, nhưng người nghe chẳng thích thọ dụng; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành sự nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp thành tựu khai trí, chẳng ưa nói nhiều, còn người nghe pháp thành tựu diễn trí chẳng ưa nói lược; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành sự nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp thành tựu khai trí, chỉ ưa lược nói, còn người nói pháp thành tựu diễn trí, chỉ ưa nói rộng; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành sự nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp thì chuyên ưa thích hiểu rộng thứ lớp pháp nghĩa của mười hai phần giáo, đó là Khế kinh, Ứng tụng, Ký biệt, Phúng tụng, Tự thuyết, Nhơn duyên, Thí dụ, Bổn sự, Bổn sanh, Phương quảng, Hy pháp, Luận nghĩa, còn người nghe thì chẳng thích biết rộng thứ lớp pháp nghĩa của mười hai phần giáo, đó là Khế kinh cho đến Luận nghĩa; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành việc nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp chuyên ưa thích hiểu rộng thứ lớp pháp nghĩa của mười hai phần giáo, đó là Khế kinh cho đến Luận nghĩa, còn người nói thì chẳng thích biết rộng thứ lớp pháp nghĩa của mười hai phần giáo, đó là Khế kinh cho đến Luận nghĩa; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành việc nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp đã thành tựu sáu phép Ba-la-mật-đa, còn người nghe thì chưa thành tựu sáu phép Ba-la-mật-đa; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành việc nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp đã thành tựu sáu phép Ba-la-mật-đa, còn người thuyết pháp thì chưa thành tựu sáu phép Ba-la-mật-đa; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành sự nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

 

Quyển thứ 303

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/10/2019(Xem: 3800)
Hòa Thượng Thích Huệ Quang (1927 - 2009) - Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam - Chứng minh Ban trị sự Phật giáo tỉnh Khánh Hòa - Huynh Trưởng Môn phong Tổ đình Nghĩa Phương - Viện chủ Chùa Đông Phước, Phước Long, TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa
20/10/2019(Xem: 4723)
Hoà thượng Thượng HOÀN Hạ QUAN, thế danh Phạm Ngọc Thơ. Pháp danh NHƯ CỤ THIỆN. Pháp tự GIẢI TOÀN NĂNG. Pháp hiệu THÍCH HOÀN QUAN. Sinh ngày 16-09-1928 (Năm Mậu Thìn) tại làng Phước Long, nay là thôn Hoà Bình xã Nghĩa Hoà huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Song thân của Ngài là Phạm Công Phạm Khánh Lâm và Cụ bà là Trần Thị Thưởng. Cụ Ông và Cụ bà đã hạ sinh được 6 người con, gồm 2 trai 4 gái, Ngài là người con thứ 5 trong gia đình.
20/10/2019(Xem: 2309)
Hòa thượng thế danh là Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Khánh Anh, Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi nhỏ, Ngài theo học Nho, luôn tỏ ra là một Nho sinh xuất sắc. Năm 21 tuổi (1916) nhận thấy cảnh thế phù du, cuộc đời là vô thường, giả tạm, Ngài quy y thọ giới tại chùa Cảnh Tiên. Năm 22 tuổi (1917) Ngài được nhập chúng tu học ở chùa Quang Lộc trong tỉnh, được ban pháp danh Chơn Húy. Sẵn có căn bản Hán học vững chắc, Ngài thâm nhập kinh tạng rất mau chóng. Ngài lần lượt thọ giới Sa Di và nghiên cứu Kinh, Luật, Luận rồi thọ giới Tỳ Kheo Bồ Tát với pháp hiệu Khánh Anh. Khi tròn 30 tuổi, Ngài trở thành một vị giảng sư Phật học nổi tiếng.
20/10/2019(Xem: 5422)
Hòa thượng thế danh là Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Khánh Anh, Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi nhỏ, Ngài theo học Nho, luôn tỏ ra là một Nho sinh xuất sắc. Năm 21 tuổi (1916) nhận thấy cảnh thế phù du, cuộc đời là vô thường, giả tạm, Ngài quy y thọ giới tại chùa Cảnh Tiên. Năm 22 tuổi (1917) Ngài được nhập chúng tu học ở chùa Quang Lộc trong tỉnh, được ban pháp danh Chơn Húy. Sẵn có căn bản Hán học vững chắc, Ngài thâm nhập kinh tạng rất mau chóng. Ngài lần lượt thọ giới Sa Di và nghiên cứu Kinh, Luật, Luận rồi thọ giới Tỳ Kheo Bồ Tát với pháp hiệu Khánh Anh. Khi tròn 30 tuổi, Ngài trở thành một vị giảng sư Phật học nổi tiếng.
20/10/2019(Xem: 5070)
Cố HT. Bửu Chơn tên thật Phạm Văn Tông, sinh ngày 25/10/1914, tại làng An Hội ‒ Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Ngài là con của cụ ông Phạm Văn Dư và cụ bà Lê Thị Dương. Tuổi thơ, ngài học ở trường làng, trường Tây, nhờ siêng năng, chăm học nên đã đậu bằng Preme. Năm 1930, ngài sang Nam Vang làm công chức trong cơ quan Việt Nha địa chính.
20/10/2019(Xem: 4391)
Hòa thượng Phước Hậu, pháp húy Trừng Thịnh, pháp tự Như Trung, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 42. Ngài thế danh Lê Văn Gia, sinh năm Bính Dần(1866), nhằm Tự Đức thứ 15, tại xã An Tiêm, huyện Đồng Quan, tỉnh Thái Bình.
20/10/2019(Xem: 5607)
Hòa thượng Pháp húy Ngộ Trí, đạo hiệu Thích Huệ Hưng, thế danh Nguyễn Thành Chẩm, thuộc dòng Thiền Lâm Tế đời thứ 39, là đệ tử Sư tổ Vạn An (Sa Đéc). Ngài sinh năm Đinh Tỵ (1917) tại làng Mỹ Thọ, quận Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ là cụ Nguyễn Minh Biện, pháp danh Minh Chiếu, thân mẫu là cụ Trần Thị Mậu, pháp danh Diệu Thiệt. Năm 62 tuổi, cụ bà xuất gia thọ giới Sa di ni.
20/10/2019(Xem: 4165)
Quốc sư tên thật là Nguyễn Tấn Giao, sinh năm Kỷ Tỵ (1869) tại làng Phú Thành, phủ An Nhơn, nay là ấp Phú Thành, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ Nguyễn Chánh Niệm, tự Hòa Bình, thân mẫu là cụ Nguyễn Thị Lãnh, ông bà đều là những Phật tửthuần thành. Năm 12 tuổi (1881), Ngài được cha mẹ cho phép xuất giatại chùa Thập Tháp, thọ giới với Hòa thượng Chí Tịnh (Minh Lý) được ban pháp hiệu là Phước Huệ. Một thời gian sau, Ngài được Bổn sư cho tới chùa Tịnh Lâm ở huyện Phù Cát, Bình Định theo học với Hòa thượng chùa Châu Long là Ngài Từ Mẫn. Năm 19 tuổi, Ngài trở về giữ chức Thủ khố của Tổ đình Thập Tháp. Năm 20 tuổi Ngài vào chùa Từ Quang ở Đá Trắng huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên theo học với Hòa thượng Luật Truyền (Pháp Chuyên). Ngài thọ đại giới năm 1889 và đắc pháp năm 1892 với Hòa thượng Luật Truyền.
20/10/2019(Xem: 4462)
Hòa Thượng Thích Mật Thể (1912 - 1961) Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
26/09/2019(Xem: 23010)
Ẩn mình trong dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ là xứ sở Bhutan, một quốc gia nhỏ bé nằm phía sau dãy Hy Mã Lạp Sơn, giống như Tây Tạng, một địa chỉ tâm linh huyền bí và khép kín với thế giới bên ngoài. Đặc biệt đây là một đất nước lấy chỉ số thu nhập GDP không phải là tiền bạc mà là hạnh phúc của con người. Tu Viện Quảng Đức sẽ tổ chức chuyến hành hương thăm viếng Bhutan và Tích Lan từ ngày 26/9 đến 12/10/2019, lệ phí trọn gói: $6,500, số khách giới hạn, xin quý Phật tử hoan hỷ đăng ký sớm. Hạn chót đăng ký và đóng tiền đầy đủ: 25/7/2019. Chuyến đi do Thượng Tọa Trụ Trì Thích Nguyên Tạng làm trưởng đoàn cùng với Đạo Hữu Tony Thạch (giám đốc công ty Triumph Tour) làm trợ lý cho Thầy để lo các công việc cần thiết. Xin quý Phật tử xa gần liên lạc về Tu Viện Quảng Đức (03.9357 3544 hoặc email:[email protected]) để ghi danh tham dự chuyến hành hương chiêm bái này. Chi tiết, xin quý Phật tử thường xuyên vào xem tại trang nhà: www.quangduc.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]