Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sư Bà Diệu Không

01/10/201405:12(Xem: 9365)
Sư Bà Diệu Không

Su Ba Dieu Khong


CUỘC ĐỜI và SỰ NGHIỆP SƯ BÀ DIỆU KHÔNG
1905-1997






 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

 

Kính bạch chư Đại Tăng chứng minh,

Kính thưa Đại chúng Phật tử,

 

Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.

* Sơ Lược tiểu sử, 1905-1997

I. Thân Thế:

SB Diệu Không thế danh là Hồ Thị Hạnh, húy là thượng Trừng hạ Hảo, hiệu là Nhất Điểm Thanh. Sư Bà sinh năm 1905, con gái Út của Cụ Hồ Đắc Trung và Cụ Châu Thị Lương, làng an Truyền, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên, trong buổi giao thời của hai nền văn hóa cũ mới.

SB vốn dĩ xuất thân từ gia đình danh gia vọng tộc, thân phụ của SB là quan Đại thần của triều đình Huế thời bấy giờ. Thuở thiếu thời SB đã hấp thụ sâu đậm hai nền giáo dục cũ mới ấy nên tư tưởng của SB rất cấp tiến. Gia đình muốn cho SB xuất dương du học, nhưng SB đã từ chối vì muốn sống trong hoàn cảnh đương thời, trong lễ nghi đạo đức truyền thống ngõ hầu nâng cao phẩm giá của người phụ nữ mà SB thường ấp ủ. Tuy nhiên, SB nghĩ rằng muốn nâng cao giá trị phẩm chất của người phụ nữ thì phải xuất gia, tu học, phải xa rời đời sống nhỏ hẹp gia đình. Để thực hiện ước vọng ấy, SB bèn xin Cha Mẹ đi tu, nhưng gia đình không dễ dàng chấp nhận vì SB là con gái út của quan Đại thần, hơn nữa thời gian ấy ở Huế chưa có một ngôi chùa chính thức của Ni giới. Trước những khó khăn trở ngại ấy, SB ẩn nhẫn chờ thời, lo trả hiếu cho Cha Mẹ, làm tròn bổn phẩn đối với gia đình, mong cơ duyên sớm đến đển hoàn thành chí nguyện xuất gia.

II.  Đầu Phật Xuất gia:

Vào năm 1932, khi SB 27 tuổi được Hòa Thượng Giác Tiên, Tổ Đình Trúc Lâm, truyền Thập giới Sa Di Ni và cho pháp tự Diệu Không, nhưng SB vẫn để tóc làm phương tiện giao dịch với người Pháp trong chính quyền bảo hộ, với tư cách đại diện An Nam Phật Học mà SB là một trong những vị sáng lập viên. Thời gian qua mau, sau 12 năm thọ Thập giới Sa Di Ni, năm Giáp Thân, 1944, SB được thọ Cụ Túc Giới tại Giới Đàn Thuyền Tôn do Hòa Thượng Giác Nhiên làm đàn đầu.

Kể từ khi xuất gia cho đến ngày đầy đủ giới pháp – Tam Đàn cụ túc, SB luôn có mặt trong mọi hoàn cảnh Phật sự, nơi nào cần SB đều có mặt để chung lo Phật sự nơi đó, không phân biệt thành phần xã hội. SB trang trải tình thương yêu đến cho tất cả, do vậy SB đã thể hiện tấm lòng phụng sự Phật pháp đến với mọi người đều được tốt đẹp. Tấm lòng của SB đã được trân quý nhất mực, kể cả chư Tăng thời bấy giờ.

III.  Hành Trạng Hóa Duyên:

SB xây dựng Ni Viện đầu tiên cho Ni giới là Ni Viện Diệu Đức, Huế, SB sáng lập các chùa Ni khác như: Diệu Viên, Khải Ân, Hồng Ân - Huế, Bảo Thắng - Hội An, Bảo Quang - Đà Nẵng, Tịnh Nghiêm - Quảng Nam, Ni Viện Diệu Quang - Nha Trang. Ở miền Nam, SB sáng lập Ni Trường ở Sa Đéc, Ni Viện Từ Nghiêm ở Sài Gòn. SB cũng góp công xây dựng Đại Học Vạn Hạnh cùng với chư Tôn túc Hòa Thượng Trí Thủ, Hòa Thượng Minh Châu…

Ngoài những Phật sự xây dựng chùa viện, SB còn góp phần không nhỏ trong việc khai sáng các Cô Ký Nhi Viện ở miền Trung, như Cô Nhi Viện Tây Lộc - Huế… SB thành lập nhà in Liên Hoa để in kinh sách, Nguyệt San Liên Hoa - năm 1952 do Hòa Thượng Đôn Hậu làm Chủ nhiệm, Hòa Thượng Đức Tâm làm Chủ bút, SB là quản lý, biên tập viên.

IV.           Công Trình dịch thuật của SB gồm:

-         Thành Duy Thức Luận

-         Du Già Sư Địa Luận

-         Lăng Già Tâm Ấn

-         Di Lặc Hạ Sanh Kinh

-         Đại Trí Độ Luận

-         Trung Quán Luận Lược Giải (Long Thọ Bồ Tát)

-         Hiển Thật Luận (Thái Hư Đại Sư)

 

Ngoài những dịch phẩm trên, SB còn sáng tác nhiều thơ văn để khuyến tấn người đời tu tập, cũng như giáo dục người phụ nữ thời bấy giờ.

Trong đời sống hằng ngày, tuy bận rộn Phật sự vừa đối ngoại, đối nội lo toan nhiều việc nhưng SB vẫn không xao lãng công hạnh tu hành, tham thiền, niệm Phật. Tuy mang thân người nữ nhưng SB không có tính nữ nhi thường tình, hy sinh đời mình phụng sự cho lý tưởng tu tập Bồ Tát Đạo. Chính vì lý tưởng Bồ Tát Đạo này, SB đã không phát nguyện sinh về Tịnh Độ mà nguyện trôi lăn trong sinh tử luân hồi để làm lợi ích chúng sinh. Vào thời bấy giờ các Sơn Môn Thừa Thiên – Huế, quý Ôn đều biết hạnh nguyện của SB, quý Ôn kể lại nhiều câu chuyện về tánh đức, hạnh lành của SB thể hiện qua đời sống hằng ngày, qua tinh thần phụng sự Phật pháp, lợi lạc quần sanh.

V.  Cuối Đời Hành Đạo:

Suốt đời đem thân tu tập và hành đạo, năm 1978 SB trải qua một cơn bạo bịnh, dứt hơi thở cuối cùng, trong lúc chư Tăng Ni vây quanh Niệm Phật tiếp dẫn vừa dứt, một sư cô cảm thương bật khóc thành tiếng, SB giật mình tỉnh dậy. SB nói: “Có gì mà quý cô khóc, sống chết là chuyện thường tình của người tu hành, ta đã thấy cảnh Tịnh độ trang nghiêm rồi, quả thật cõi ta bà không bằng, nên ta nguyện ở cõi ta bà để tùy duyên hóa độ.” Từ đó, SB tiếp tục con đường hoằng pháp lợi sanh suốt 19 năm sau.

Thời gian đã đến, hạnh nguyện đã tròn, SB thâu thần thị tịch vào 2 giờ sáng ngày 22 tháng 8 năm Đinh Sửu, nhằm ngày 23 tháng 9 năm 1977, hưởng thọ 93 tuổi đời, 53 hạ lạp.

Một tiểu thư con nhà quan, quyền quý, giàu sang, nhưng SB đã từ bỏ, không lấy đó làm lợi ích cho bản thân, danh lợi cho riêng mình sống đời thế tục, mà đời sống ấy chính là phương tiện để làm lợi đạo ích đời. Sự nghiệp của SB để lại cho hậu thế tương đối khá nhiều: Chùa Viện, Ni Viện, cơ sở vật chất, văn hóa, giáo dục… cho GH. Riêng đời sống tâm linh, sự nghiệp tinh thần thì ngôn ngữ thế gian hữu lậu không thể nói hết được, sự tu chứng của SB thì mấy ai hiểu được. Do vậy, xin chắp tay cầu nguyện SB hồi nhập ta bà hiện thân người nữ để tiếp tục hướng dẫn, chấn chỉnh Ni giới tinh tấn tu hành, tinh nghiêm đời sống đạo, như hành trạng của SB còn ngời sáng trong tâm của tất cả Ni chúng hôm nay.

VI.   Nghịch Hạnh Độ Đời Kham Nhẫn

“Nguyện Phật chứng minh muôn vạn kiếp

Con xin lăn lóc cõi ta bà”

 

Năm 1932, sau khi lo toan việc nhà, SB xuất gia đầu Phật, sống đời tương chao của chốn Thiền Môn. Từ đó SB đã phụng sự tất cả trong khả năng của SB, từ việc chăm lo xây dựng chùa viện tại địa phương, cho đến các vùng phụ cận, xa hơn nữa là Saigon, miền Nam nước Việt. Sư Bà đã đem hết tâm huyết lo chấn chỉnh bên Ni giới, lo giáo dục hàng phụ nữ thời bấy giờ. Từ tinh thần hy sinh, phụng sự ấy SB đã hoan hỷ tham gia công cuộc đấu tranh đòi tự do tôn giáo, bình đẳng tín ngưỡng trước sự đàn áp của chế độ Ngô Đình Diệm. SB xin phát nguyện tự thiêu trước tiên trong công cuộc đấu tranh này. Chúng ta hãy nghe lại đôi dòng vấn đáp của SB và chư vị Tôn Túc thời bấy giờ:

“Một hôm tôi được mời về chùa Từ Đàm họp, Thượng Tọa Trí Quang nói:

- Miền Nam im lìm như vậy, làm sao có đông Tăng Ni hưởng ứng?

Thượng Tọa Thiện Minh nói:

- Phải có người hy sinh mới xong.

Tôi nói:

- Hy sinh đây là chết phải không?

Thượng Tọa Trí Quang đáp:

- Hy sinh trong ý nghĩa thiêu thân để bảo vệ chánh pháp.

- Vậy, kính bạch chư Tôn Túc, cho phép con đứng đầu đội cảm tử.

Hòa Thượng Thiền Tôn hỏi:

- Hòa Thượng Mật Hiển đại diện cho Trúc Lâm có cho phép không?

Hòa Thượng Mật Hiển nói:

- Vị pháp hy sinh ai lại dám cấm?”

(thuvienhoasen.org)

 

Sau đó, SB viết một bức thư gửi cho chư Tôn Đức miền Nam, ký tên phát nguyện tự thiêu. Sau đó, SB cùng người chị ruột là SB Diệu Huệ vào Saigon để chuẩn bị cho công việc hy sinh, tự thiêu để bảo vệ Phật pháp được trường tồn, cho quê hương, dân tộc được tự do hạnh phúc. Nhưng có lẽ nhân duyên chưa tròn, nên sau khi vào Saigon ở chùa Từ Nghiêm, SB được mời về Ấn Quang và Hòa Thượng Thiện Hoa, Phó Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo cho biết là đã có Hòa Thượng Quảng Đức phát nguyện tự thiêu rồi. Khi nghe tin Hòa Thượng Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng, Lê Văn Duyệt, SB đã xúc động, thành tâm làm bài thơ khóc Hòa Thượng:

“Thầy ơi! Con biết tính sao đây

Lễ kính lòng đau trước Thánh Thầy

Lửa dậy lưng trời thân chẳng động

Dầu loang khắp đất ý không lay

Tiêu diêu Cõi Tịnh, Thầy theo Phật

Lận đận trần gian con nhớ Thầy

Phật tử Việt Nam còn nhớ mãi

Nét son lịch sử vẫn không phai”

(Hồi ký – Đường Thiền Sen Nở - SB Diệu Không)

 

Trên con đường tu tập, SB quan Niệm phụng sự cho chúng sinh là cúng dường chư Phật, từ ý niệm này SB luôn xông xáo vào hiện tình xã hội để cứu nhân độ thế, để xốc dậy phẩm giá người phụ nữ thời ấy. SB đã xây dựng Hội Nữ Công Gia Chánh – Huế do Nữ sĩ Đạm Phương thành lập. Cảm kích tấm lòng phụng sự của Nữ sĩ Đạm Phương, SB đã làm bài thơ tặng Hội Nữ Công:

“Nữ Công sáng lập tại Thừa Thiên

Kinh tế nâng cao bước nữ quyền

Gánh vác giang sơn thân gái Việt

Duy trì nòi giống đất Rồng Tiên

Công dung tinh tấn không lười biếng

Ngôn hạnh đoan trang ấy chính chuyên

Tất cả chị em nên gắng bước

Noi gương Trưng Triệu mãi lưu truyền.”

 

SB đã thật sự dấn thân vào đời ác năm trược để hóa độ mọi người, làm lợi ích cho tha nhân mà không cầu mong chóng thành quả Thánh. SB chỉ một lòng lo chấn chỉnh Ni chúng, thành lập nhiều Ni Viện từ Huế vào Nam để tạo thành sự sinh hoạt đồng bộ với chúng Tăng. Vì tinh thần phụng sự cho xã hội, cho cộng đồng nữ giới tích cực, SB phát nguyện xuất gia, đầu Phật làm kẻ tu hành, sống nơi chốn nhà Chùa, sớm kinh tối kệ, những mong cứu vớt mọi người, mong sao được an lành hạnh phúc. Tâm cứu độ rộng lớn, tâm hy sinh cao cả làm rung dộng lòng người, Nữ sĩ Đạm Phương đã làm thơ tặng SB:

“Khoác áo nhu hòa thật khỏe không

Hiếu tình hai chữ trả đều xong

Thờ thân nuôi trẻ hai triêng nặng

Mến đạo thương đời một điểm trong

Công quả đã tròn nền Diệu Đức

Phẩm tài chỉ kém bạn Phương dung

Nêu cao đuốc tuệ gương bồ liễu

Như mảnh trăng tròn giữa biển Đông”

 

Đã nguyện dấn thân vào đời để tu tập, thì SB đâu có ước nguyện cầu vãng sanh Tịnh Độ. SB đã phụng hiến khả năng của mình qua hai phạm trù Đạo pháp và dân tộc. Về mặt Đạo pháp, như đã nói ở trên, SB chăm lo xây dựng chùa viện, cùng sát cánh với chư Tăng để hoằng dương Phật pháp nơi cõi ta bà này. Từ kinh tế, xã hội, văn hóa giáo dục… SB đều hiện thân khắp nơi để chu toàn Phật sự, không nề hà quản ngại tấm thân nhi nữ thường tình. Về mặt dân tộc, SB luôn đấu tranh đòi hỏi cho công cuộc tự do, dân chủ. Dưới thời Pháp thuộc, SB đích thân đối diện với quan lại của Triều đình Huế đòi hỏi công bằng, đòi hỏi thực thi dân chủ cho người dân. SB đã mang đạo Giải Thoát vào đời để mong tạo sự an lạc, Tịnh độ là đây.

SB nghĩ nếu rời khỏi nhân gian để cầu mong giải thoát thì khó quá, chi bằng tu tập và giải thoát ngay trong cuộc đời này. Sự giải thoát này là thành quả của tinh thần phụng sự, hiến dâng cho tất cả chúng sinh. SB đã chọn nơi đây làm đạo tràng tu tập cho chính mình. Do đó, SB đã làm bài thơ nói lên tâm sự của chính mình:

“Ta bà Tịnh Độ ở đâu xa

Chỉ tại lòng ta niệm chánh tà

Chánh niệm trang nghiêm thành Tịnh Độ

Tà niệm vận chuyển hóa ta bà

Vô tâm chánh trí là tâm Phật

Hữu ý mê tình ấy tánh ma

Tà chánh đều mong vô lậu giới

Ta bà Tịnh Độ ở tâm ta.”

(chuyenluan.net)

 

Nhìn lại cuộc đời tu hành xuất thế gian và phụng sự hiến dâng cho thế gian của SB là cả một tấm lòng nhiệt thành, quý kính, giờ đây bên Ni giới mấy ai có được hình ảnh cao thượng như SB. Khó tìm ra trong xã hội đương thời một hình ảnh từ hòa, nhân hậu, một tánh đức nhu nhuyễn, khoan dung như SB đã hiện thân vào những thập niên 30-40 ấy.

Sự chào đời của một cô bé nơi miền sông Hương núi Ngự đã làm đẹp cho quê hương xứ Huế thương yêu, đã làm rạng danh người phụ nữ đương thời, sống lại đúng nghĩa của bậc nữ lưu anh kiệt. Cô bé ấy lớn dần theo thời gian để rồi trở thành một SB danh đức trong dòng chảy của chốn tòng lâm tự viện. Xứ Huế là cái nôi Phật pháp miền Trung. Hôm nay, hàng Ni chúng phải chí thành ngưỡng vọng, thành tâm đảnh lễ công đức cao dày của SB mà noi gương tiến bước theo công hạnh tu tập và giá trị phụng sự của SB, ngõ hầu báo đáp ân sâu đối với SB trong muôn một.

 

Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni,

Chúng con thành tâm đảnh lễ chư Tôn Đức Đại Tăng trong ngày Về Nguồn – Hiệp Kỵ Tổ Sư lần thứ VIII tại chùa Pháp Bảo – Sydney, Úc Châu do Hòa Thượng phương trượng Thích Bảo Lạc tổ chức, tài trợ cho chương trình đại lễ được thành tựu viên mãn. Trước Đại Tăng trang nghiêm, thanh tịnh chính là ý thức Về Nguồn trong sự tư duy mẫn cảm thâm sâu, trong tinh thần hòa hiệp của bản thể Tăng già hằng lưu xuất. Một hội chúng Tăng già hiện hữu bất cứ nơi đâu, thì Phật pháp vốn có nơi đó, ấy là Niềm bình an hạnh phúc của các bậc chúng Trung Tôn trên con đường hoằng truyền chánh pháp.

Thành tâm kính chúc chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng cùng Đại Tăng pháp thể khinh an, chúng sinh dị độ để hoàn thành công cuộc hoằng pháp nơi hải ngoại này, để từ đó chúng ta luôn tưởng nhớ hình ảnh của chư vị Lịch Đại Tổ Sư được phụng thờ nơi Hậu Tổ mà thấy được hành trạng của quý Ngài luôn hiện hữu trong mỗi tâm thức của chúng ta. Trong ý thức Về Nguồn – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư bừng sáng, làm sống dậy ngụm nước đầu nguồn, sức sống uyên nguyên của dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam hơn 2000 năm qua.

 

Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ Tát Ma Ha Tát.

Sydney, Úc Châu, Chùa Pháp Bảo

Ngày 27 tháng 9 năm 2014

Thích Nguyên Siêu

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/07/2014(Xem: 11434)
An Cư Kiết Đông đã qua, Nhưng lời thuyết pháp đậm đà vẫn vương Thích Ca tái thế tình thương Thầy về giảng Pháp con nương nơi Thầy
27/07/2014(Xem: 6727)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh. Tình thương yêu của Ôn luôn tưới tẩm và lan tỏa trong toàn thân con mỗi ngày khi được sống bên Ôn.
24/07/2014(Xem: 10520)
Mới đó mà một năm sắp trôi qua và hai năm cũng sẽ đến ngày viên tịch của cố Hòa Thượng Thích Minh Tâm, Viện Chủ chùa Khánh Anh kiêm Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu. Giáo Hội Âu Châu mong mỏi thực hiện một Kỷ Yếu nhân lễ Đại Tường (2015) nên đã giao phần gom góp và biên tập bài vở cũng như trang trí quyển Kỷ Yếu nầy cho Hòa Thượng Thích Như Điển (Đức), Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu (Hoa Kỳ) và Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng (Úc Châu) thực hiện. Lâu nay chúng ta đã có một số bài tiêu biểu đã được đăng trên các trang nhà như : quangduc.com, viengiac.de, hoavouu.com và một số trang nhà khác.
22/07/2014(Xem: 29276)
Ngôi tu viện Phật giáo vùng Tây Bắc của tiểu bang Victoria được Thượng tọa Thích Tâm Phương khai sơn từ năm 1990. Ban đầu tu viện tọa lạc ở vùng Broadmeadows. Đến năm 1995, tu viện vận động mua lại ngôi trường tiểu học Fawkner cũ có diện tích 8.000 m2 và xây dựng thành ngôi phạm vũ trang nghiêm mang tên Bồ tát Thích Quảng Đức từ năm 1997 đến năm 2003. Công trình xây dựng do kiến trúc sư Nguyễn Kiển Thành thiết kế, kiến lập theo kiểu chữ “Công” mang dáng dấp kiến trúc cổ kính Á Đông. Đại lễ khánh thành được tu viện tổ chức trọng thể vào các ngày 10, 11 và 12-10-2003. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm thờ tôn tượng đồng đức Phật Thích Ca thiền định. Tượng cao 2,50m, nặng khoảng 1,5 tấn. Phía trước và hai bên, tu viện đặt thờ nhiều tượng Phật, Bồ tát, Hộ Pháp Già Lam. Đến năm 2008, tu viện xây Tăng xá và Bảo tháp Tứ Ân. Bảo tháp 4 tầng, cao 14m, rộng 5m, trên nóc tôn trí tượng đức Phật A Di Đà cao 1,2m. Trong bảo tháp tôn thờ Xá Lợi Phật, tượng chư Phật, Bồ tát và linh cốt của Phật tử q
12/07/2014(Xem: 7809)
Thời gian mãi trôi qua, không gian chưa bao giờ ngừng sự chuyển động và con người cũng phải già thêm, vì không thể cưỡng lại định luật vô thường vốn tự có. Ngày xưa khi Đức Phật còn tại thế Ngài hay dạy cho các vị đệ tử rằng: Phàm những gì có hình tướng thì tất cả đều bị chi phối bởi sự vô thường, mà đã vô thường thì nguyên nhân chính của nó là khổ, nhưng thật ra cái khổ nó cũng không có thật tướng, vì bản thể của mọi hiện tượng đều là không. Sở dĩ có, vì có ái và thủ chấp hữu, nên mới có những tướng sanh diệt. Khi nào không duyên vào bất cứ một hiện tượng hay hình thức nào bên ngoài, thì lúc ấy chúng ta sẽ chứng được thực tướng của Niết Bàn vô sanh vô diệt.
05/07/2014(Xem: 6020)
Hôm nay, dẫu Ni trưởng Thích nữ Viên Minh duyên trần đã mãn nhưng tâm hạnh và sự nghiệp tu tập của Người mãi là kho tàng vô giá, là ngọn Hải đăng cho Ni chúng Thừa Thiên Huế nói riêng và cả nước nói chung đồng tôn ngưỡng hướng về. Ni trưởng thế danh Nguyễn Thị Khiêm Tốn, húy thượng Tâm hạ Huệ, tự Viên Minh, hiệu Trí Uyên, sinh năm Giáp Dần (1914) tại thôn Động Giả, xã Đỗ Động, huyện Thanh Oai, Hà Nội (tức tỉnh Hà Đông).
01/07/2014(Xem: 8347)
Ni sư Thích nữ Hải Triều Hạnh, Pháp Hiệu Hoằng Hạnh, Tự Liễu Như, thế danh Trần Duy Hạnh. Sinh năm Ất Mùi 1955 tại Gia Định sài gòn. Ni Sư sinh trưởng trong 1 gia đình gia giáo. Thân phụ là cụ ông Trần Duy Ninh PD: Hoằng Ninh, vốn là em kết nghĩa của Thầy Hải Triều Âm là một y sĩ cùng làm chung một sở y tế với Thầy, khi Thầy chưa xuất gia cụ ông luôn theo Thầy làm trưởng đoàn công tác từ thiện xã hội và Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn thị Hoa Truật, pháp danh Mỹ Dung, sau Hòa Thượng Pháp Chủ đổi tên là Cát Tường vốn là vị hộ pháp thân tín trong thời gian Thầy xuất gia, nhập thất và suốt chặng đường hoằng Pháp của Thầy.
30/06/2014(Xem: 10287)
Video: Hòa Thượng Thích Huyền Quang Một Đời Thao Thức
19/06/2014(Xem: 12389)
Hoài bảo một "CÁI MỘNG" trên 25 năm mới hoàn toàn thực hiện Trong lúc du học ở Xuân Kinh(1938), đến mùa hè năm 1941, tôi được dịp may dự thính lớp Giáo Lý của Đoàn Thanh Niên Dục Đức, trong một tháng (mỗi đêm giảng 2 giờ) , do Bác sĩ Lê Đình Thám đảm trách (lớp này hiện nay còn Thượng Toạ Thích Minh Châu và Đạo hữu Võ Đình Cường v.v...) Tôi thích thú quá! Vì thấy bác sĩ đem phương pháp giảng giải của Tây phương mà giải thích, trình bày một triết lý cao siêu của Đông phương. Sự phối hợp cả Âu và Á làm cho người nghe rất thích thú vì hiểu được rằng triết lý cao siêu của Đông phương qua phương pháp trình bày rõ ràng rành mạch của Tây phương. Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567