HTThíchThanh Từ soạn dịch
TuViệnChơn Không 1971
Giữathếkỷ thứ sáu sau Phật Niết-bàn
Ngàicũng có tên là Long-Thắng, dòng Phạm-Chí ở miền Tây-Ân.Thuở nhỏ, Ngài bẩm tánh thông minh; vừa nghe Phạm-Chí tụngbốn kinh Phệ-Đà là Ngài thuộc lòng văn nghĩa. Đến 20 tuổi,Ngài đi châu du khắp các nước tìm học các môn thiên văn,địa lý, toán số, sấm ký và các học thuật của ngoại đạo.Môn nào Ngài học đến đều xuất sắc hơn mọi người. Nhơnmột cơ duyên chẳng lành. Ngài nhận thực được các pháplà vô thường đau khổ nên vào núi ở ẩn. Số người tìmđến cầu học với Ngài rất đông.
Saukhi gặp Tổ Ca-Tỳ-Ma-La cảm hóa, Ngài xin xuất gia đượcTổ độ cho và truyền cả tâm ấn. Từ đó,Ngài vân du thuyếtpháp khắp nơi, lần lượt đến miền Nam-Ấn. Dân chúng xứnầy chỉ sùng phước nghiệp, từ Ngài đến đem pháp yếuchỉ dạy, họ tự bảo nhau :< Chỉ phước nghiệp nầy làviệc tôi thắng,nói về Phật tánh thì đâu thể thấy >.
Ngàinhơn đó bảo họ: -Các ngươi nếu muốn thấy được Phậttánh thì trước hết phải bỏ tâm ngã mạn đi, mới có thểthấy được. Họ hỏi Ngài : -Phật tánh lớn hay nhỏ? Ngàiđáp: -Chẳng nhỏ chẳng lớn, không rộng không hẹp, khôngphước không báo, chẳng chết chẳng sống. Dân chúng nghe Ngàinói tột lý,vui mừng nguyện học pháp ấy. Ngài liền ngaytrên tòa hóa thân như vầng mặt trăng. Dân chúng tuy nghe thuyếtpháp mà không thấy có hình Ngài. Trong ấy có con một ôngnhà giàu tên là Ca-Na-Đề-Bà, khi thấy thế liền cảm ngộ.
Đề-Bàbảo dân chúng : -Biết tướng nầy chăng ? Dân chúng thưa :-Chúng tôi không thể phân biệt được.Đề-Bà nói: -Đâylà Bồ-Tát thị hiện để biểu thị Phật tánh,muốn chúngta hiểu rỏ vậy. Vô tướng tam muội giống như mặt trăngtròn là nghĩa Phật tánh rỗng rang sáng suốt .Đề-Bà nóidứt lời thì vầng trăng ẩn mất, Bồ-Tát hiện ngồi an nhiênchỗ cũ, nói kệ: Thân hiện viên nguyệt tướng, Dĩ biểu chưPhật thể, Thuyết pháp vô kỳ hình, Dụng biện phi thinh sắc.
Dịch: Thân hiện tướng trăng tròn, Để nêu thể các Phật, Nóipháp không hình ấy, Dùng rõ phi thinh sắc .
Toànchúng nghe xong, đều cảm ngộ, cầu xin xuất gia. Ngài triệutập các bậc thánh tăng đến truyền giới. Trong số xuấtgia nầy, Đề-Bà là người dẫn đầu. Một quốc gia ở gầnmiền Nam-Ấn, có đến năm ngàn người tu theo ngoại đạo đượcnhiều phép lạ, Vua và quốc dân đều thọ giáo nơi họ, khiếnđạo Phật mờ tối. Ngài thấy thế cảm động, bèn đổihình thức, mặc áo trắng đợi mổi khi vua ra thành, Ngài cầmcây cờ đi trước, hoặc ẩn hoặc hiện. Làm như thế đếnbảy lần. Hôm nọ, vua lấy làm lạ kêu lại hỏi : -Ngươilà người gì dám đi trước ta, mà bắt không được, thảchẳng đi?
Ngàiđáp : -Tôi là người trí, biết tất cả việc. Vua nghe ngạcnhiên,muốn thí nghiệm nói: -Chư thiên nay đang làm gì?
Ngàiđáp : -Chư thiên đang đấu chiến với A-Tu-La. Vua hỏi :-Làmsao được biết? Ngài đáp:-Nếu bệ hạ muốn biết chốclát sẽ thấy chứng nghiệm. Quả nhiên,phút chốc thấy gươmgiáo tay chơn ở trên không rơi xuống. Vua và quốc dân rấtkính phục Ngài, nhơn đó, Ngài chuyển họ trở lại quy y Tam-Bảo.Hômnọ, Ngài gọi Ca-Na-Đề-Bà đến dặn dò.
-Như-Lailấy đại pháp nhãn tạng trao cho Tổ Ca-Diếp,cho đến đờita,nay ta trao cho ngươi. Hãy nghe kệ:
Vịminh ẩn hiển pháp, Phương thuyết giải thoát lý, Ư pháp tâmbất chứng, Vô sân diệc vô hỷ.
Dịch: Vì sáng pháp ẩn hiển, Mới nói lý giải thoát, Nơi pháptâm chẳng chứng, Không sân cũng không hỷ.
Dặndò xong,Ngài nhập nguyệt luân tam muội rồi hiện tướng thầnbiến vào Niết-bàn. Ngài sáng tác rất nhiều bộ luận đểxiển dương giáo pháp Đại-Thừa :
1-Trungluận, 2-Thuận trung luận, 3-Thập nhị môn luận, 4-Đại-Thừaphá hữu luận, 5-Lục thập tụng như lý luận,
6-Đại-Thừa nhị thập tụng luận, 7-Thập bát không luận,8-Hồi tránh luận, 9-Bồ-đề tư lương luận, 10-Bồ-đề tâmly tướng luận, 11-Bồ-đề hạnh kinh, 12-Thích ma ha diễn luận,13-Khuyến phát chư vương yếu kệ, 14-Tán pháp giới tụng,15-Quảng đại pháp nguyện tụng.
Bồ-TátMã-Minh là người khêu mồi ngọn đèn chánh pháp đại-thừa; chính Ngài là người thắp sáng và truyền bá khắp nơi chođến vô tận ngọn đuốc Đại-Thừa, Những tác phẩm củaNgài, bộ Trung-Luận có giá trị nhất, đến hiện nay đã dịchra nhiều thứ chữ để truyền bá khắp thế giới.