PHÂN VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC
Hà Nội –1990
THIỀN UYỂN TẬP ANH
(Anh tú Vườn Thiền)
NGÔ ĐỨC THỌ – NGUYỄN THÚY NGA
Dịch và chú thích
(Dịch theo nguyên bản chữ Hán Trùng San)
THIỀN UYỂN TẬP ANH Khắc in năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715)
---o0o---
(QUYỂN THƯỢNG)
THIỀN UYỂN TẬP ANH TỰ
(Bài Tựa sách Thiền uyển tập anh)
Tại sao lại lấy nghĩa là “Thiền uyển tập anh”? Đáp rằng: “đó là lấy nghĩa lựa chọn những bậc anh tú trong vườn Thiền. Tại sao lại như vậy? Bởi vì môn đồ của Thiền tông thì nhiều mà những bậc thấu hiểu lý huyền vi thì không có mấy, quả thật như phượng giữa đàn gà, lan trong bụi cỏ. Nừu không phải là những người có thiên tư lỗi lạc, hiểu biết hơn người thì làm sao thấu suốt được những yếu chỉ huyền vi đủ làm kẻ lãnh tụ cho người học đạo, làm khuôn mẫu cho người đời sau? Đúng là trong vườn Thiền những người anh kỳ không phải nhiều, do đó phải chọn lấy những bậc danh cao đức trọng để tiện cho những người học Phật noi theo. Cái nghĩa của “Tập anh” là như thế, do đó được dùng để đặt tên cho tập sách này.
Kể từ buổi đầu thời hỗn độn(1)có Phật Uy Âm(2)xuất thế là đấng tị tị tố của Thiền tông. Nhưng thời bấy giờ phong tục còn thuần hậu, con người chất phác, kinh giáo còn ở giữa cõi hư không nên chưa cần nói ra để hóa độ chúng sinh. Nhà nào lấy ma làm Phật thì nhà ấy dối trá ngày sinh, gian dâm ngày càng nổi lên, nghiệp căn càng kết, tội chướng càng sâu, không giúp cho họ bằng con thuyền từ bi tế độ thì không thể được. Cho nên Phật Thích Ca xuất hiện ở cõi Sa Bà(1)giảng kinh thuyết kệ để giáo hóa chúng sinh, trải tu chính kiếp, công quả tròn đầy. Thế là Phật giáo được thi hành rộng khắp, Thiền tông tiếp nối. Gió đưa hơi thanh mát cho sáu đạo(2), tuyết vùi lửa bỏng cháu ở ba đường(3). Bí quyết thành Phật, thành Tổ cũng từ đây mở mối.
Nước Đại Việt ta được lời Phật thấm nhuần khắp cả, được mưa pháp gội sóng nhiều nơi, người cạo tóc xuất gia được ấn chứng ngô đạo có lẽ cũng đã có rồi. Chứng tích để lại còn cho thấy lòng thiền của họ sáng như mặt trời, gương đạo của họ trắng ngời như băng tuyết. Có bậc ra giúp nước yên thân, có người vào đời để cứu vớt kẻ bị sa ngã, chìm đắm. Có người sớm lĩnh ngộ tâm ấn, chống gậy Thiền để làm rõ lẽ cơ vi của Tổ Đạt Ma, cũng có kẻ muộn đến cửa huyền mà làm hiển rạng bí chú của Đồ Trừng(4). Họ có đức thuần phục chim rừng, khiến chúng tìm đến cửa nghe kinh, khiến đã thú vây tụ quanh(5), vào nhà dâng quà. Đó là do lòng thành của các bậc ấy cảm hóa mà chúng tin theo, do cái học sở đắc mà các bậc ấy có phép thần thông biến hóa. Há chẳng phải đó là cái huyền diệu của phép sư đệ truyền tâm ấn(1)đó sao? Thực đủ để làm những bậc anh tú trong vườn Thiền.
Than ôi! Đạo Phật rất huyền vi, mà tâm là cái huyền vi trong huyền vi; đạo Phật rất lớn mà tâm là cái lớn trong cái lớn. Tâm ơi! Tâm ơi! Tâm là chủ tể của việc tu đạo đấy chăng?
Tập Thiền uyểnnày ghi từ thiền sư Vô Ngôn Thông là người bắt đầu truyền đạo(2). Ánh đèn truyền đạo tiếp nối, ngọn ngọn huy hoàng. Nhưng rộng thì làm gọn lại, lớn thì thu nhỏ lại. Cuối cùng cốt đạt cho được cái tâm Vô thượng chính giác(3)vậy. Xét cho cùng thì phải chăng là không rửa sạch sáu trần(4), xa lìa bốn tướng(5)mà có thể đạt được như vậy?
Tôi vốn học sách Nho, tham cầu Phật điển, nghĩ rằng cái “vô”, cái “hữu” tuy là hai đường nhưng xét cho cùng thì tựa như cùng một lý. Nhân khi rỗi rãi ngồi trong phòng sách, có một nhà sư đến chơi, cùng tôi bàn luận về đạo Phật, trò chuyện hồi lâu đều là những chuyện lông rùa sừng thỏ. Rồi nhà sư lấy trong tay áo ra cuốn sách Tập anh,nhờ tôi sửa sang câu cú để tiện việc trùng sang, tránh được sai sót. Tôi đọc trong sách ấy thấy ghi chép nhiều bậc cao tăng, danh tố, sức học của họ rất sâu, chứng đạo rất diệu, bất giác trong lòng tôn kính khâm phục. Các bậc ấy bàn về đạo không, nói về sự giác ngộ, cố nhiên không phải là phận sự của tôi. Nhưng Kinh Dịchtừng nói: “Trẻ nhỏ cầu ta kể chuyện, không thể không nghe theo”. Tôi đành phải nhận lời với nhà sư sửa lại chỗ sai, bổ vào chỗ sót. Trong khoảng mười ngày thì nghĩa lý, câu chữ của tập sách lại được uyển chuyển như cũ, chẳng khác gì ánh trăng càng thêm sáng tỏ. Nhà sư nhân đó xin tôi viết cho một bài tựa khắc ở đầu sách để hiển dương Phật giáo. Tôi không dám tiếc công sức bèn gọi tiểu đồng đem giấy bút đến để làm theo lời nhà sư chỉ bảo. Bèn cầm bút thảo một mạch bài tựa quê mùa này. Nhà sư vái chào nhận bài tựa ấy.
Kính cẩn đề tựa.
Thời Lê Triều, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715), tháng tư, ngày lành, trùng san.
Môn đồ nối bước Thiền tông là Thích tử Như Trí;
Sa di Tính Nhu, Tính Quán, Tính Trung, Tính Huy, Tính Kiến, Tính Bản.
Thiện nam: Tính Phận, Tính Thành, Tính Từ, Tính Hưng, Tính Minh, Tính Thúy.
Thiện nữ: Diệu Tăng, Diệu Đạo, Tính Phụng(1)
THIỀN PHÁI VÔ NGÔN THÔNG
Thiền sư VÔ NGÔN THÔNG
(? -826)
Chùa Kiến Sơ(1)hương Phủ Đổng, huyện Tiên Du.
Thiền sư họ Trịnh, vốn người Quảng Châu (Trung Quốc) thuở nhỏ ham thích môn Không học(2), bỏ gia sản đến thụ nghiệp tại chùa Song Lâm ở Vụ Châu. Tính sư cẩn trọng, trầm lặng, nói ít hiểu nhiều, thông đạt sư lý, vì thế người đương thời gọi là Vô Ngôn Thông (sách Truyền đăng chép là Bất ngữ thông)(3)
Một hôm sư đang lễ Phật, có vị thiền khách đến hỏi:
- Thầy đang lễ gì đó?
Sư đáp:
- Lễ Phật.
Vị thiền khách chỉ tượng Phật mà hỏi:
- Đây là cái gì?
Sư không trả lời được. Tối hôm ấy, sư ăn mặc chỉnh tề dến lạy vị thiền khách, thưa rằng:
- Hôm nay thầy hỏi, tôi chưa hiểu rõ ý chỉ thế nào?
Khách hỏi:
- Thầy xuất gia đến nay đã mấy hạ (1)?
Sư đáp:
- Mười hạ.
Khách hỏi:
- Đã từng xuất gia chưa?
Sư tỏ ra bối rối. Khách hỏi:
- Nếu không hiểu điều đó thì dù trăm hạ cũng chẳng ích gì.
Nói đoạn bèn dẫn sư cùng đi yết kiến Mã Tổ (2). Đến Giang Tây thì tổ đã thị tích(3)vị thiền khách bèn đưa sư đến yết kiến thiền sư Bách Trượng Hoài Hải(4). Bây giờ có vị tăng hỏi bách Trượng.
- Thế nào là pháp môn đốn ngộ của Đại Thừa?
Bách Trượng đáp:
- Đất lòng rỗng không thì mặt trời trí tuệ tự chiếu.
Sư nghe lời nói ấy cảm thấy có điều sở đắc, bèn trở về trụ trì tại chùa Hòa An ở Quảng Châu. Có người hỏi sư:
- Thầy là thiền sư chăng?
Sư đáp:
- Bần đạo chưa từng học Thiền.
Hồi lâu sau sư mới gọi người kia, chỉ vào cây thôi lư (cây xoan)(1). Người ấy im lặng không hỏi nữa.
Khi thiền sư Ngưỡng Sơn(2)còn làm sa di(3), sư từng gọi bảo:
- Này Tịch, đem chiếc giường kia lại đây cho ta!
Ngưỡng Sơn khiêng giường đến, sư lại nói:
- Đưa về chỗ cũ!
Ngưỡng Sơn làm đúng như thế. Sư lại hỏi:
- Này Tịch, bên kia có cái gì?
Ngưỡng Sơn đáp:
- Không có vật gì.
Sư lại hỏi:
- Bên này có gì?
Đáp:
- Không có vật gì.
Sư gọi:
- Này Tịch!
Ngưỡng Sơn dạ đáp, sư bảo:
- Đi đi!
Tháng chín năm Canh Tí niên hiệu Đường Nguyên Hòa thứ 15 (820), sư đến chùa Kiến Sơ. Ngoài hai bữa cơm cháo, suốt ngày sư chỉ ngồi quay mặt vào tường, không nói một lời, chuyên chú tu tập thiền định làm vui. Suốt mấy năm liền như thế nên người ngoài không ai biết sư, chỉ có sư trụ trù chùa là Cảm Thành hết lòng kính cẩn hầu hạ. Cảm Thành gần gũi bên cạnh sư để học hỏi những điều cơ vi huyền diệu, hiểu rõ yếu chi của Thiền Tông.
Một hôm sư không bệnh, tắm rửa, thay quần áo rồi gọi Cảm Thành đến bảo:
- Ngày trước tổ ta là Nam Nhạc Hoài Nhượng thiền sư, khi quy tịch có bảo rằng:
Nhất thiết chư pháp
Giai tòng tâm sinh
Tâm vô sở sinh
Pháp vô sở trụ
Nhược đạt tâm địa
Sở tác vô ngại
Phi ngộ thượng căn
Thận vật khinh hứa.
Tất cả các pháp
Đều từ tâm sinh
Tâm không chỗ sinh
Pháp không chỗ trụ
Nếu đạt đất lòng
Làm gì chẳng ngại
Không gặp thượng căn
Cẩn thận chớ nói(2)
Nói đoạn sư chắp tay mà qua đời. Thiền sư Cảm Thành làm lễ hỏa táng(3)rồi thu xá lị, dựng tháp phụng thờ ở núi Tiên Du. Bây giờ là ngày 12 tháng giêng năm Bính Ngọ niên hiệu Bảo Lịch thứ 2 (826) thời cuộc Đường.
Lại cách hai mươi tám năm (?) đến năm Đinh Sửu niên hiệu Khai Hựu thứ 24 (1337)(1)Thiền học nước Việt ta bắt đầu từ [Vô Ngôn] Thông thiền sư(2)ở chùa Kiến Sơ vậy.
Thế hệ thứ nhất(1)
Thiền sư CẢM THÀNH
(?-860)
Chùa Kiến Sơ.
Thiền sư là người huyện Tiên du, họ(2)... Lúc mới xuất gia ở tụng kinh làm đầu. Phụ hào trong làng là ông họ Nguyễn kính mộ đ núi Tiên Du thuộc bản quân, đạo hiệu là Lập Đức. Lấy việc trì giới ức hạnh cao cả của sư, tự nguyện cúng gia trạch làm chùa, mời sư đến trụ trì nhưng sư từ chối. Đêm ấy sư chiêm bao thấy thần nhân đến bảo: “Nếu làm theo chí nguyện của nhà họ Nguyễn thì chỉ chừng vài năm sẽ gặp may lớn”. Vì thế sư bèn nhận lời mời của ông họ Nguyễn (chùa ấy chính là chùa Kiến Sơ ở hương Phù Đổng).
Sau đó không bao lâu, Thông thiền sư đến. Sư biết đó không phải là người thường, ngày đêm hầu hạ chưa từng biếng trễ. Thông thiền sư cảm động lòng thành khẩn của Lập Đức bèn đổi tên cho là Cảm Thành.
Một hôm Thông thiền sư bảo Cảm Thành:
- Xưa Thế tôn vì nhân duyên lớn mà xuất hiện ở thế gian. Hóa duyên xong ngài nhập Niết Bàn. Diệu tâm ấy gọi là chính pháp nhân tạng, thực tướng, vô tướng và tam muội pháp môn. Đích thân Thế tôn giao cho đệ tử là tôn già Ma Ha Ca Diếp(1)làm tổ thứ nhất, các đời nối truyền, đến Đạt Ma đại sư(2)từ Tây Trúc sang trải bao hiểm nguy vì truyền pháp này. Đến tổ thứ sáu Tào Khê (Huệ Năng) được tổ thứ năm (Hoằng Nhẫn) bảo cho biết rằng(3)“Khi Đạt Ma mới đến, người đời chưa tin hiểu nên lấy việc truyền y bát đề tỏ rõ việc đắc pháp. Nay đức tin đã chín muồi, y bát có thể trở thành đầu mối tranh chấp cho nên phải dừng lại ở ngươi, không truyền tiếp nữa”. Từ đó chỉ lấy tâm truyền tâm, không truyền y bát.
“Bây giờ Nam Nhạc Hoài Nhượng là người đầu tiên được truyền tâm pháp. Nhượng truyền cho Mã Tổ Đạo Nhất. Đạo Nhất truyền cho Bách Trượng Hoài Hải. Ta nhận được tâm pháp ở Bách Trượng. Phép đó tử lâu đã có tiếng vang, nghe ở phương này(4)đã có đông người hâm mộ Đại Thừa, vậy nên ta đến để tìm kẻ thiện trí thức. Nay ta gặp ngươi cũng là nhờ có nhân duyên kiếp trước. Hãy nghe lời kệ của ta:
Chư phương hạo hạo
Võng tự huyên truyền
Vi ngô thủy tổ
Thân tự Tây Thiên
Truyền pháp nhãn tạng
Mục vi chi thiền
Nhất hoa ngũ diệp
Chủng tử miêm miên
Tiềm phù mật ngữ
Thiên vạn hữu duyên
Hàm vị Tâm tông
Thanh tịnh bản nhiên
Tây Thiên thử thổ
Thử thổ Tây Thiên
Cổ kim nhật nguyệt
Cổ kim sơn xuyên
Xúc đồ thành trệ
Phật tổ thành oan
Sai chi hào ly
Thất chi bách thiên
Nhữ thiện quan sát
Mạc khiểm nhi tôn
Trực nhiêu vấn ngã
Ngã bản vô ngôn.
Dịch:
Các nơi đồn đại
Dối tự trạo truyền
Rằng thủy tổ ta
Gốc tự Tây Thiên
Truyền pháp nhân tạng
Gọi đấy là Thiền
Một hoa năm lá
Hạt giống liên miên
Ngầm hợp mật ngữ
Muôn ngàn có duyên
Tâm tông đều gọi
Thanh tịnh bản nhiên
Tây Thiên cõi này
Cõi này Tây Thiên
Xưa nay nhật nguyệt
Xưa nay sơn xuyên
Chạm đến thành trệ
Phật tổ thành oan
Sai một mảy may
Đi mất trăm ngàn
Ngươi khéo quan sát
Chớ lừa cháu con
Nói thẳng đến ta
Ta vốn vô ngôn
MINH CHI
(LSPGVN)
Sư nghe lời kệ của tổ liền tỉnh ngộ.
Có vị tăng hỏi:
- Thế nào là Phật?
Sư đáp:
- Khắp tất cả mọi nơi.
Lại hỏi:
- Thế nào là Phật tâm?
Đáp:
- Chưa từng che giấu.
Người ấy lại nói:
- Kẻ học đạo này chưa hiểu.
Sư đáp:
- Ngươi trượt qua rồi!
Sau thiền sư không bệnh mà qua đời. Bấy giờ là năm Canh thìn niên hiệu Đường Hàm Thông thứ 1 (860).
*
* *
Thế hệ thứ hai
1 người
Thiền sư THIỆN HỘI
(? – 901)
Chùa Dịnh Thiền, hương Siêu Loại(1)
Thiền sư người hương Điển Lãnh, thủa nhỏ xuất gia theo hầu sư Tiệm Nguyên ở chùa Đông Lâm thuộc bản hương, tự hiệu là Tổ Phong. Ông từng vân du nhiều nơi để cầu học yếu chỉ Thiền tông. Gặp thiền sư Cảm Thành ở chùa Kiên Sơ bàn theo hầu để học đạo, hơn mười năm không lúc nào tỏ ra mỏi mệt. Một hôm sư vào phòng hỏi thầy:
- Trong kinh nói Thích Ca Như Lai tu hành trải qua ba “A tăng kỳ”(2)mới thành Phật. Nay thầy lại nói “Tâm tức Phật, Phật tức tâm”, đệ tử chưa hiểu rõ, xin thầy dạy bảo cho.
Cảm Thành hỏi:
- Ngươi bảo trong kinh nói, tức là ai nói?
Sư đáp:
- Chẳng lẽ đó không phải là lời Phật hay sao?
Cảm Thành nói:
- Nếu là Phật nói thì tại sao trong kinh Văn Thủ lại nói: “Ta ở thế gian bốn mươi chín năm chưa nói một chữ dạy người”?
Vả lại cổ nhân nói nếu tìm văn để làm chứng thì càng thêm ngưng trệ: khổ hạnh mà cầu Phật là mê muội, lìa tâm cầu Phật thì đó là kẻ ngoại đạo. Cứ nắm chấp cái tâm coi là Phật thì đó là Ma quân.
Sư hỏi:
- Như thế trong cái tâm ấy, cái gì không phải là Phật? Cái gì chính là Phật?
- Cảm Thành đáp:
- Xưa có người hỏi Mã Tổ: “Tâm tức là Phật, Phật tức là tâm, vậy cái gì là Phật?” Mã Tố đáp “Ngươi ngỡ cái gì không phải là Phật thì chỉ ta xem?”. Người kia không trả lời được. Mã Tổ nói: “Hiểu thấu được thì khắp nơi đều là Phật. Không giác ngộ thì sai lầm mãi”. Chỉ một thoại đồ ấy ngươi đã hiểu chưa?(1)
- Đệ tử đã lĩnh ngộ rồi.
Cảm thành nói:
- Người lĩnh ngộ thế nào?
Sư đáp:
- Khắp mọi nơi chẳng đâu không phải là tâm Phật.
Nói xong bèn sụp xuống lạy tạ. Cảm Thành nói:
Vậy là ngươi hiểu đúng rồi.
Nhân đó Cảm Thành đặt tên cho sư là Thiện Hội.
Về sau thiền sư thị tịch ở bản chùa. Đó là năm Canh thân niên hiệu Đường Quang Hòa thứ 3 (901).
*
* *
Thế hệ thứ ba
Thiền sư VÂN PHONG
(?-957)
Chùa Khai Quốc(1)kinh đô Thăng Long
Thiền sư người huyện Từ Liêm, quận Vĩnh Khang, họ Nguyễn còn có một pháp danh khác là Chủ Phong thiền sư. Khi mang thai bà mẹ thường trai giới, tụng kinh niêm Phật. Đến khi sinh thấy hào quang tỏa sáng khắp nhà, cha mẹ cho là điều lạ, có ý định ngày sau sẽ cho con xuất gia. Lớn lên theo hầu thiền sư Thiện Hội ở hương Siêu Loại. Sư thường hầu chuyện riêng với thầy để được làm đệ tử thân tín, có dịp hỏi han những điều huyền vi, hiểu biết Thiền học ngày càng tăng tiến. Thiện Hội từng bảo sư:
- Sống chết là việc lớn, cần phải suy ngẫm cho thấu đáo
Sư hỏi:
- Khi sống, chết đến, làm sao mà tránh?
Thiện Hội đáp.
- Phải nắm lấy chỗ không sống chết mà tránh.
Lại hỏi:
- Thế nào là chỗ không sống chết?
Đáp:
- Phải ở trong sống chết mới nhận biết được.
Hỏi:
- Làm thế nào mà tìm được?
Thiện Hội nói:
- Ngươi hãy đi đi! Chiều muộn lại đến!
Sư bèn đi ra, đúng hẹn, chiều hôm đó lại đến. Thiện Hội nói:
- Đợi đến sáng mai mọi người sẽ chứng tỏ cho người biết.
Sư bừng tỉnh bèn sụp xuống lạy tạ. Thiện Hội hỏi:
- Ngươi thấy được đạo lý gì?
Sư đáp:
- Đệ tử đã lĩnh hội được rồi!
Thiện Hội lại hỏi:
- Ngươi lĩnh ngộ cái gì?
Sư bèn giơ nắm tay nói:
- Kẻ bất tiếu bị cái này che lấp!
Thiện Hội bèn thôi không hỏi nữa. Về sau, sư quy tịch năm Bính
Thìn niên hiệu Chu Hiển Đức cho 3 (957).
*
* *
Thế hệ thứ tư
2 người, chỉ chép 1 người
Đại sư KHUÔNG VIỆT
(933-1011)
Chùa Phật Đà, hương Cát Lị,(1)huyện Thường Lạc.
Ông người hương Cát Lị, huyện Thường Lạc, họ Ngô tên là Chân Lưu, là hậu duệ của Ngô Thuận(2). Ông dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tính tình phóng khoáng, có chí khí cao xa. Thuở nhỏ theo học Nho, lớn lên theo đạo Phật, cùng bạn đồng học Trụ Trì đến chùa Khai Quốc thụ giới cụ túc với thiền sư Vân Phong, nhờ đó được đọc rộng kinh điển Phật giáo, hiểu sâu yếu chí Thiền học. Năm bốn mươi tuổi, danh tiếng vang dội đến triều đình. Vua Đinh Tiên Hoàng vời về kinh đô (Hoa Lư) hỏi chuyện. Sư đối đáp hợp ý, được vua phong giữ chức Tăng thống. Năm thứ 2 niên hiệu Thái Bình (971) sư được ban hiệu là Khuông Việt đại sư. Dưới triều vua Lê Đại Hành, sư đặc biệt được vua kính trọng, phàm các việc quân quốc triều đình, sư đều được tham dự. Sư thường đi chơi ở núi Vệ Linh, quận Bình Lỗ, thích nơi đây cảnh trí đẹp, thanh u, muốn dựng am để ở. Ban đêm sư chiêm bao thấy thần nhân mặc áo giáp vàng, tay phải đỡ ngọn bảo tháp, theo sau có hơn chục tên quân hầu dáng mạo hung dữ. Vị thần bảo với sư rằng: “Ta là Tì Sa Môn(1)thiên vương, quân hầu theo ta đây đều là bọn quỷ Dạ xoa. Thiên đế có sắc chỉ sai ta đến nước này gìn giữ cương giới để cho Phật pháp được hưng thịnh. Ta có duyên với ngươi nên đến đây để nhờ cậy”. Khi trời sáng, sư vào núi thấy một cây cổ thụ cao chừng mười trượng, cành lá xum xuê tươi tốt, phía trên có đám mây lành che bóng. Sư nhân đó thuê thợ đốn cây ấy lấy gỗ tạc tượng thần theo đúng như đã thấy trong mộng để thờ phụng.
Năm Thiên Phúc thứ nhất (981), quân Tống sang xâm lược nước ta. Trước đó, vua đã biết chuyện này, bèn sai sư đến đền cầu đảo xin thần phù hộ. Quân giặc kinh sợ lui về giữ sông Hữu Ninh. Đến đây, bọn chúng lại thấy sóng gió nổi lên ùn ùn, giao long nhảy tung trên mặt nước, quân giặc sợ hãi tan chạy.
Năm Thiên Phúc thứ bẩy (986) nhà Tống sai Lý Giác (2)sang sứ nước ta. Bấy giờ pháp sư Đỗ Thuận cũng có danh tiếng lớn. Vua sai pháp sư cải trang làm giang lệnh đón tiếp sứ giả ở bến sông. Giác thấy giang lệnh có tài nói chuyện bèn làm thơ tặng, trong đó có câu “Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu” (ngoài trời lại có trời soi nữa). Vua bảo Đỗ pháp sư đưa cho Khuông Việt xem. Khuông Việt xem xong nói: “Sứ Bắc tôn kính bệ hạ không kém gì vua Tông”. Khi Giác trở về sư làm bài từ Ngọc lang quy đưa tiễn:
Tường Quang phong hào cẩm phàm trương
Thần tiên phục đế hương
Thiên trùng vạn lý thiệp thương lang
Cửu thiên quy lộ trường
Tình thảm thiết
Đối ly trường
Phan luyến sứ tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị Nam cương
Phân minh báo ngã hoàng.
Dịch:
Nàng tươi gió thuận cánh buồng giương
Thần tiên lại đế hương
Vượt sóng xanh muôn dặm trùng dương
Về trời xa đường trường
Tình thắm thiết
Chén lên đường
Vin xe sứ vấn vương
Xin đem thâm ý vì Nam cương
Tâu vua tôi tỏ tường(1).
HÀ VĂN TẤN
(LSPGVN)
Về sau sư lấy cớ già yếu xin cáo quan trở về dựng chùa ở núi Du Hi thuộc quận nhà, rồi trụ trì ở đấy, người các nơi đến theo học rất đông. Một hôm đệ tử thân cận là Đa Bảo hỏi sư:
- Thế nào là thủy chung của đạo học?
Sư đáp:
- Thủy chung không vật thảy hư không
Hiểu được Chân Như, thể ắt đồng.
(Thủy chung vô vật diệu hư không
Hội đắc Chân Như thế tự đồng)
Đa Bảo hỏi:
- Lấy gì bảo chứng?
Sư đáp:
- Không có chỗ cho người hạ thủ.
Đa Bảo thưa:
- Hòa thượng nói rõ rồi.
Sư đáp:
- Người hiểu thế nào?
Đa Bảo bèn hết lên một tiếng.
Ngày mười lăm tháng hai niêu hiệu Thuận Thiên thứ hai (1011, đời Lý Thái Tổ), trước lúc quy tịch, sư gọi Đa Bảo đến đọc lời kệ rằng:
Mộc trung nguyên hữu hỏa
Nguyên hỏa phục hoàn sinh
Nhược vị mộc vô hỏa
Toàn toại hà do manh?
Dịch:
Lửa trong cây có sẵn
Dù tắt lại bùng ngay
Nếu bảo cây không lửa
Xát mạnh sao cháy cây?
Nói xong sư ngồi kiết già mà qua đời, thọ 52 tuổi (có người nói thọ 79 tuổi)(1)
*
* *
Thế hệ thứ năm
Thiền sư ĐA BẢO
Chùa Kiến Sơ, hương Phù Đổng, huyện Tiên Du.
Không biết sư người ở đâu, cũng không rõ họ gì. Bây giờ Khuông Việt đại sư giáo hóa ở chùa Khai Quốc, sư đến tham thiền học đạo, được đại sư khen là người lĩnh ngộ cơ vi, xử sự kính cẩn, riêng được đại sư nhận làm đệ tử thân tín. Sau khi đắc pháp, sư một mình theo bình bát đi vân du ngoại vật, sau đến trụ trì ở chùa Kiến Sơ.
Khi Lý Công Uẩn còn nhỏ tuổi, sư thấy dáng mạo tinh anh tuấn tú khác thường, bèn nói: “Cậu bé này cốt tướng chẳng phải tầm thường, ngày sau làm vua ắt là người này”. Lý Công Uẩn cả sợ nói: “Ngày nay thánh đế đang trị vì, trong nước yên bình, sư nói thế không khéo gây họa tru di cho cả họ nhà tôi”. Sư nói:
- Mệnh trời đã định như thế, dù muốn trốn tránh cũng không được. Nếu quả đúng như lời, mong đừng nhau!
Sau khi lên ngôi, Lý Thái Tổ nhiều lần vời sư về kinh thỉnh vấn yếu chỉ của Thiền tông, ân lễ tiếp đãi trọng hậu, các việc chính sự triều đình đều mời sư dự bàn định đoạt. Vua từng xuống chiếu cho trùng tu chùa Kiến Sơ là nơi sư trụ trì. Về sau không biết sư tịch ở đâu.
*
* *
Thế hệ thứ sáu
3 người, chép thiếu 1 người
Trưởng lão ĐỊNH HƯƠNG
(?-1051)
Chùa Cảm Ứng(1), núi Ba sơn, phù Thiên Đức.
Trưởng lão họ Lã, người hương Chu Minh, suốt đời tu hành thanh tịnh. Xuất gia từ lúc còn nhỏ, theo hầu học đạo với thiền sư Đa Bảo hơn hai mươi năm. Môn đồ của Đa Bảo có đến hơn một trăm người mà chỉ Định Hương và Quốc Bảo Hòa(2)được chọn là giỏi nhất, về yếu chỉ của Thiền tông thì Định Hương thấu hiểu sâu sắc hơn. Một hôm sư hỏi Đa Bảo:
- Làm sao thấy được chân tâm?
Đa Bảo đáp:
- Chính ngươi phải tự phát hiện lấy!
Định Hương khoát nhiên tỉnh ngộ nói:
- Tất cả đều như thế, đâu phải chỉ riêng đệ tử.
Đa Bảo hỏi:
- Ngươi đã hiểu chưa?
Đáp:
- Đệ tử hiểu rồi, nhưng cũng giống như chưa hiểu.
Đa Bảo nói:
- Phải lấy tâm ấy mà bảo nhậm.
Sư ôm tai đứng quay lưng lại:
Đa Bảo bèn quát bảo:
- Đi đi!
Định Hương sụp xuống lạy ta. Đa Bảo nói:
- Về sau giao tiếp với người, ngươi phải làm như kẻ điếc.
Ở kinh đô, có viên Đô tướng Thành hoàng sứ là Nguyễn Tuân kính mộ danh đức của sư, mời sư về trụ chùa Cảm Ứng, học trò đến theo học rất đông. Đối với người đời, sư có công dạy bảo cảm hóa không nhỏ. Ngày ba tháng năm Canh dần niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1051) đời Lý Thái Tông, sự lâm bệnh, gọi đệ tử đến đọc bài kệ vĩnh biệt.
Bản lai vô xứ sở
Xứ sở thị chân tông
Chân tông như thị ảo
Ảo hữu tức không không
Dịch:
Xưa nay không xứ sở
Xứ sở ấy chân tông
Chân tông hư ảo thế
“Có” ảo tức “không” không.
Nói xong sư im lặng mà quy hóa.
*
* *
Thiền sư THIỀN LÃO
Chùa Trùng Minh, núi Thiên Phúc, huyện Tiên Du.
Trước sư đến tham vấn sư Đa Bảo ở chùa Kiến sơ lĩnh hội được tâm yếu của Thiền tông. Sau sư đến trụ trì ở núi này(1)có tiếng là bậc cao tăng đương thời. Học trò đến theo học đông có tới hơn nghìn người. Chùa Trùng Minh trở thành một thiền viện sầm uất trong chốn tùng lâm. Khoảng niên hiệu Thông Thụy (1034 – 1038) vua Lý Thái Tông thường đến thăm chùa. Vua hỏi:
- Hòa thượng trụ ở núi này đã bảo lâu?
Sư đáp:
- Tháng ngày rày biết rõ
Xuân thu cũ ai hay.
(Đản tri kim nhật nguyệt
Thùy thức cựu xuân thu)
Vua lại hỏi:
- Hàng ngày hòa thượng làm gì?
Đáp:
- Trúc biếc hoa vàng đâu ngoại cảnh
Trăng trong mây trắng rõ toàn chân
(Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch văn minh nguyệt lộ toàn chân)
Vua hỏi:
- Có ý chỉ gì?
Đáp:
- Nhiều lời vô ích!
Vua bừng tỉnh ngộ. Sau đó sai sứ đến mời sư về kinh thỉnh vấn, nhưng khi sứ giả đến nơi thì sư đã quy tịch rồi. Vua rất thương tiếc, làm thơ viếng, sai trung sứ đem lễ vật phúng điếu, dựng dàn hoả táng, xây tháp xá lị ở trong chùa. Lại cho sửa sang mở rộng chùa, cho môn đồ lo đèn hương thờ phụng.
*
* *
Thế thứ bẩy
Thiền sư VIÊN CHIẾU
(999-1090)
Chùa Cát Tường, kinh đô Thăng Long.
Thiền sư họ Mai, tên Trực, người huyện Long Đàm(1), châu Phúc Đường, là con người anh thái hậu Linh Cảm đời Lý(2). Thuở nhỏ ông thông minh mẫn tuệ, hiếu học. Nghe tiếng trưởng lão ở chùa Mật Nghiêm giỏi xem tướng, ông bèn đến nhờ xem hộ. Trưởng lão xem kỹ tướng mạo rồi nói: “Ngươi có duyên với Phật pháp, nếu xuất gia tất sẽ là vị Thiện Bồ tát; nếu không thì thọ yểu chưa biết thế nào”. Sư cảm ngộ rồi từ biệt thân quyến tìm đến thụ nghiệp với thiền sư Định Hương ở núi Ba Tiêu. Trong những năm ấy, sư suy cứu thiền học, chuyên chủ trì tụng kinh Viên Giác, tinh thông phép Tam quán(3). Một đêm sư đang ngồi thiền định thì mơ thấy Văn Thủ Bồ Tát cầm dao mổ bụng lôi ruột sư ra rửa, rồi trao cho diệu dược để chữa vết thương. Từ đó sư hiểu sâu ngôn ngữ Tam muội, thuyêt giảng trôi chảy. Sau sư đến vùng gần kinh kỳ dựng chùa trụ trì, người đến theo học đông nườm nượp. Có vị tăng hỏi:
- Nghĩa của Phật và thánh như thế nào?
Sư đáp:
- Cúc trùng dương dưới giậu
Oanh xuân ấm đầu cành.
(Ly hạ trùng dương cúc,
Chi đầu thục khí oanh)
Lại hỏi:
- Đa tạ hòa thượng, nhưng kẻ học này chưa hiểu, xin hòa thượng chỉ giáo thêm cho.
Sư đáp:
- Ngày qua vầng ô chiếu
Đêm đến bóng thỏ soi.
(Trú tắc kim ô chiếu
Dạ lại ngọc thố minh)
Hỏi:
- Đệ tử hiểu ý thầy
Huyền cơ là gì đây?
(Dĩ hoạch sư chân chỉ
Huyền cơ thị như hà?)
Đáp:
- Nước đựng đầy thau bưng bất cẩn
Vấp chân soài ngã hối làm chi.
(Bất thận thủy bàn kình mãn khứ
Nhất tao tha điệt hối hà chi?)
Thiền tăng nói:
- Đa tạ lời chỉ giáo của hòa thượng
Sư nói:
- Chớ rửa trên mặt nước
Thân gieo nước tự chìm.
(Mạc trạc giang ba nịch
Thân lại khước tự trầm)
Hỏi:
- Thiếu Thất (1), Ma Kiệt(2)rất huyền diệu, từ xưa đến nay ai kể nối làm chủ?
Đáp:
- Tượng trời nhật nguyệt thay sáng tối
Mạch đất quanh co nối Nhạc Hoài(3).
(U minh kiền tượng nhân ô thố
Khuất khúc khôn duy vị Nhạc Hoài)
Hỏi:
- Thế nào là đạo lớn
Nguồn căn một lối về?
(Như hà thi đại đạo
Căn nguyên nhất lộ hành)
Đáp:
- Gió thốc non cao hay cỏ cứng
Nước mà nguy biến biết tôi trung.
(Cao ngạn tật phong tri kính thảo
Bang gia bản đăng thức trung lương)
Hỏi:
- Tất cả chúng sinh từ đây tới, trăm năm sau về đâu?
Đáp:
- Rùa mù đào vách núi
Trạch que ngược núi cao.
(Manh quy xuyên thạch bích
Phả miết thướng cao sơn)
Hỏi:
- Trúc biếc xanh xanh cũng đều là Chân như. Như vậy cái “dụng” của Chân như là thế nào?
Đáp:
- Tặng người đi nghìn dặm
Cười đưa một ấm trà.
(Tặng quân thiên lý viễn
Tiếu bả nhất bình trà)
Hỏi:
- Thế nào là “uổng công đến mà chẳng ích gì?”
Đáp:
- Ai biết lên gò núi
Trên đường đã bạc đầu
(Thùy thức đông a khứ
Đồ trung tái bạch đầu)
Hỏi:
- Nhà sâu hiên im vắng
Ai biêt bọn ta tìm
(Dã hiên nhất thâm hộ
Thùy thức đáng nhàn xao?)
Đáp:
-Kim cốc(1)tiêu điều hoa cỏ xác
Trâu dê sớm tối mặc ra vào.
(Kim Cốc tiêu sơ hoa thảo loạn
Nhi kim hôn hiểu nhậm ngưu dương)
Hỏi:
- Sao lại như thế?
Đáp:
- Phú quý không dè xẻn
Lâu đài nối biển khơi
(Phú quý kiêm kiêu thái
Phiên linh bại thị lâu)
Hỏi:
- Long Nữ(2)dâng châu thành Phật quả
Đàn Na(1)bố thí phúc hằng bao?
(Long nữ hiến châu thành Phật quả
Đàn Na xả thí phúc như hà)
Đáp:
- Quế trong trăng muôn thuở
Xum xuê vẫn một vầng.
(Vạn cổ nguyệt trung quế
Phù sơ tại nhất luân)
Hỏi:
- Thế nào là “vất vả mà chẳng nên công”?
Đáp:
- Trời cao như gương sáng
Người đời chốn chốn thông
(Thiên thượng như huyền kính
Nhân gian xứ xứ thông)
Hỏi:
- Qua sông dùng bè mảng
Đến bền bỏ ghe thuyền
(Độ hà tu dụng phiệt
Đáo ngạn bất tu thuyền)
Vậy không sang sông thì thế nào?
Đáp:
- Ao khô cá mắc cạn
Sống được ắt muôn xuân.
(Hạc trì ngư tại lục
Hoạch hoạt vạn niên xuân)
Lại hỏi:
- Thế nào là “theo dòng thì mới được diệu lý”?
Đáp:
- Chuyện cũ Kinh Kha đấy
Một đi chẳng trở về.
(Kiến thuyết Kinh Kha lữ
Nhất hành cánh bất hồi)
Hỏi:
- Quặng vàng lẫn lộn đều nguyên khí
Xin sư phương tiện luyện cho tinh
(Kim khoáng hỗn giao nguyên nhất khí
Thỉnh sư phương tiện luyện tinh hình)
Đáp:
- Chẳng phải Tề quân(1)khách
Nào hay cá biển to.
(Bất thị Tê quân khách
Ná trì hải đại ngư)
Hỏi:
- Quách ông(2)chẳng chịu hiểu
Cán gián có làm chi?
(Quách quân nhược bất nạp
Gián ngữ diệc hề vi)
Đáp:
- Nếu muốn uống rượu trước
Đừng vẽ rắn thêm chân
(Nhược dục tiên đề ấm
Hưu vi xảo họa xà)
Hỏi:
- Rắn sắp chết giữa đường, xin thầy cứu sống?
Sư hỏi lại:
- Ngươi là người phương nào?
Đáp:
- Vốn là người ở núi.
Sư nói:
- Núi xưa về ẩn gấp
Đừng gặp Hứa chân quân(1)
(Cấp hồi cựu nham ẩn
Mạc kiến Hứa chân quân)
Thầy tăng lại hỏi:
- Kho biển mênh mông chẳng màng đến
Khe tào róc rách, ý sao đây?
(Hải tạng thao thao ưng bất vấn
Tào Khê trích trích thị như hà)
Đáp:
- Thông reo trước gió tiếng buồn thay
Mưa tạnh sau chân biết lối lầy
(Phong tiền tùng hạ thê lương vận
Vũ hậu đồ trung thiền trọc nê)
Hỏi:
- Như thế nào là “không khác ngày nay”?
Đáp;
- Cúc trùng dương dưới giậu
Oanh ngày ấm đầu cành
(Ly hạ trùng dương cúc
Chi đầu noãn nhật oanh)
Hỏi:
- Rõ ràng giữa chốn sắc thân
Chói lọi ở trong tâm mục
(Chiêu chiêu tâm mục chi gian
Lãng lãng sắc thân chi nội)
Vậy mà lý không phân biệt được, hình không trông thấy được. Tại sao không thể thấy?
Đáp:
- Trong vườn hoa rực rỡ
Trước bến, cỏ lơ phơ
(Uyển trung hoa lạn mạn
Ngạn thượng thảo li phi)
Hỏi:
- Lạnh trời mầm cây rụng
Lấy gì để khoe tươi?
(Tuế hàn quần miêu lạc
Hà di khả tuyên dương)
Đáp:
- Mừng ông đã thấu đạt
Chẳng cũng vui lắm sao?
(Hỉ quân lai tự đạt
Bất diệc thả hoan ngu)
Tăng nói:
- Được lời thầy chỉ giáo
Từ này thoát ưu phiền.
(Hạnh văn kim nhất quyết
Từng thứ miễn hốt vô)
Sư đáp:
- Vũng cạn vừa lên khỏi
Quay đầu vạn dặm sâu.
(Thiển nịch tài đề xuất
Hồi đầu vạn trượng đàm)
Hỏi:
- “Niết Bàn thành nội thượng do nguy”. (Lời kinh nói: “Ở chốn Niết Bàn nguy còn đến”). Vậy biết nơi nào hết hiểm nguy?
Đáp:
- Xây tổ trên màn trướng
Tóc râu xoã cành lau
(Doanh sào liêm mạc thượng
Tu phát vi thiều kinh)
Hỏi:
- Nếu gặp khi bức bách
Hai đường theo nẻo nào?
(Nhược tao thì bách cận
Lưỡng cứ thị hà vi)
Đáp:
- Phóng đãng tùy ý thích
Tiêu dao với gió trăng
(Trượng phu tùy phóng đăng
Phong nguyệt thả tiêu dao)
Hỏi:
Tất cả chúng sinh, điều nói là Phật, Lý ấy chưa rành. Xin thầy chỉ giáo (Nhất thiết chúng sinh; Giai ngôn thị Phật, Thử lý vị minh, thỉnh sư thùy thị)
Đáp:
- Chăm bón nông tang ngươi hãy gắng
Chớ học ôm cây đợi thỏ qua
(Khuyến quân thả vu nông tang khứ
Mạc học tha nhân đãi thố lao)
Tăng nói:
-Được lời thầy chỉ giáo
Ngoài chẳng hỏi ai chi.
(Hạnh mông sư hiển quyết
Chung bất hướng tha cầu)
Sư nói:
- Đáng thương người nấc nghẹn
Ngồi đói chịu quên ăn.
(Khả lân tao nhất ế
Cơ tọa khước vong xan)
Tăng nói:
- Ngọc vàng cất giấu trong rương đẫy
Rành rõ giờ đây được ngắm xem.
(Kỷ niên cửu tích nang trung báu
Kim nhật đương trường địch diện khan)
Sư nói:
- Đợi trung thu trăng sáng
Ngờ đâu mây tối trời
(Chỉ đãi trung thu nguyệt
Khước tao vân vũ xâm)
Tăng nói:
- Tuy nghe thầy thuyết giảng
Lẽ ấy chưa rõ ràng.
(Tuy văn sư ngữ thuyết
Thử lý vị phân minh)
Sư đáp:
- Cười kẻ ôm cột cầu
- Chết đuối giữa dòng sâu
(Tiếu tha đồ bão trụ
Nịch tử hướng trung lưu)
Hỏi:
- Thế nào là “nhất pháp”?
Đáp:
- Chỉ thấy xuân qua hè lại đến
Mới vào thu chín, gật đông về
(Thốn kiến xuân sinh kiêm hạ trưởng
Hựu phùng thu thục cập đông tàng)
Hỏi:
- Như thế nào là nhiều người được thành Phật?
Đáp:
- Thủy Hoàng tìm Tiên mỏi
Từ Phúc mãi chẳng về
(Tổ Long khu tự chỉ
Từ Phúc viễn đồ lao)(1)
Lại hỏi:
- “Kiến tính thành Phật” (thấy được bản tính thì thành Phật) nghãi là thế nào?
Đáp:
- Cây héo vào xuân hoa nở rộ
Gió đưa nghìn dặm nức hương thần
(Khô mục phùng xuân hoa canh phát
Phong suy thiên lý phức thần hương)
Tăng nói:
- Đệ tử chưa hiểu, xin thầy giảng lại cho.
Sư đáp:
- Vạn năm cây cà ấy
Tươi tốt vút tầng mây
(Vạn niên già tử thụ
Thương thúy tủng vân đoan)
Hỏi:
- Ma Ni cùng các sắc
Chẳng hợp cũng chẳng rời
(Ma Ni dữ chúng sắc
Bất hợp bất phân ly)
Đáp:
- Hoa xuân cùng bướm trắng
Lúc luyến hay chia ly?
(Xuân hoa dữ hồ điệp
Kỷ luyến kỷ tương vi)
Tăng hỏi:
- Thế nào là “Tuy hóa hỗn tạp”?
Đáp:
- Chẳng phải sư Thiên Trúc
Uổng ngắm ngọc Biên châu
(Bất thị Hồ tăng nhân
Đồ lao sính Biện châu)
Lại hỏi:
- Thế nào là “xúc mục bồ đề”? (Chân lý gần ngay trước mắt).
Đáp:
- Cây cong chim hoảng sợ
Thổi mãi lạnh cóng người
(Kỷ kinh khúc mục điểu
Tân xuy lãnh tê nhân)
Hỏi:
- Kẻ học này chưa hiểu, xin thầy đổi cho thí dụ khác.
Đáp:
- Kẻ điếc nghe đàn sáo
Người mù ngắm trăng sao
(Tủng nhân thính cầm hưởng
Manh giả vọng thiềm thừ)
Hỏi:
- Vốn đã có hình thì có bóng
Phải chăng lại có bóng không hình?
(Bản tự hữu hình kiêm hữu ảnh
Hữu thời ảnh dã lý hình phầu?)
Đáp:
- Nước đổ về đông chừ, đua chảy vạn dòng.
Sao chầu hướng bắc chừ, muôn thuở cùng lòng.
(Chúng thủy triều đông hề, vạn phái tranh lựu,
Quần tinh củng bắc hề, thiên cổ quy tâm)
Hỏi:
- Thế nào là “một câu rõ hết hơn cả muôn câu”?
Đáp:
- Xách bổng Thái Sơn về Bắc Hải
Ngước tung thiền trượng tới cung trăng
(Viễn phù Thái son siêu Bắc hải
Ngưỡng phao trụ trượng nhập thiềm cung)
Hỏi:
- Chỉ sự ấy là thực
Ngoài ra chẳng phải chân?
(Duy thử nhất sự thực
Dư nhị tức phi chân)
Vậy thế nào là “chân”?
Đáp:
- Gió dễ lay đầu gậy
Đường đi mưa sinh lầy
(Trượng đầu phong dị động
Lộ thượng vũ thành nê)
Hỏi:
- Không hướng Như Lai xin diệu tạng
Nối đèn lửa tổ chẳng cầu xin
(Bất hướng Như lai thì diệu tạng
Bất cầu tổ diệm tục đăng chi)
Ý chỉ câu ấy là thế nào?
Đáp:
- Trong tuyết mẫu đơn nở
Trời thu oanh hót vang
(Thu thiên đoàn thử lệ
Tuyết cảnh mẫu đơn khai)
Hỏi:
- Thế nào là câu tuyệt diệu?
Đáp:
- Một người quay vào vách
Cả nhà uống mất vui
(Nhất nhân hướng ngung lập
Mãn tọa ẩm vô hoan)
Lại hỏi:
- Cổ kim việc lớn không nên hỏi
Thiền từ Tây tới hỏi nên chăng?
(Cổ kim đại sư ưng vô vấn(1)
Đặc địa tây lai ý nhược hà)
Đáp:
- Kẻ khéo mồm giả dối
Mai trơ ngói vỡ thôi(2)
(Xoả ngọn lệnh sắc giả
Toàn quy đả ngoã nhân)
Hỏi:
- Cả tâm và pháp đều quên, tính tức Chân, vậy thế nào là “Chân”?
Đáp:
- Mưa tươi non hoa, Thần nữ khóc(3)
Gió khua rặng trúc, Bà Nha đàn.
(Vũ trích nham hoa Thần nữ lệ
Phong xao đỉnh trúc Bá Nha cầm)
Lại hỏi:
- Thế nào là câu tuyệt diệu?
Đáp:
- Trong cổ còn vường hóc
Đừng ngồi có yên dâu.
(Hầu lý do tồn ngạnh
Thường cư bất khoái nhiên)
Hỏi:
- Còn “tu” còn “chứng” sinh bốn bệnh
Vươn đầu nào có thoát trần ra.
(Hữu tu hữu chứng khai tứ bệnh
Xuất đâu hà khả thoát trần lung)
Đáp:
- Biển rộng bao dung nhiều nguồn nhỏ
Non cao giữ mãi bụi hồng trần
(Sơn cao cánh tại dung trần trữ
Hải khoát năng thâm nạp tế lưu)
Hỏi:
- Trong sách nói: “Chỉ có Phật với Phật mới biết việc này”. Ấy là việc gì?
Đáp:
- Đường hẹp trúc um tùm
Gió reo nhạc tự thành
(Hiệp kính sum sum trúc
Phong xuy khúc tự thành)
Hỏi:
- Không theo bình thường, không theo thiên nhiên, không theo công dụng, vậy nay biết làm thế nào?
Đáp:
- Cỏ bồng chim sâu đậu
Biển biếc náu giao long.
(Bồng thảo thê đê yến
Thương minh ẩn cự lân)
Hỏi:
- Tứ đại(1)mang về từ nhiều kiếp
Thỉnh sư phương tiện thoát luân hồi.
(Tứ đại đới lai do khoáng kiếp
Thỉnh sư phương tiện xuất luân hồi)
Đáp:
- Tê giác là loài súc thú hiếm
Ăn bằng gai góc, ngủ trong bùn.
(Cử thế súc đồ tê thị bào
Xan ư kinh cức ngọa ư nê)
Hỏi:
- “Thủ” hay “xả” đều là ở trong vòng luân hồi; không “thủ”, không “xả” thì thế nào?
Đáp;
- Xưa nay hồng đẹp, sắc nay khác
Cành lá xum xuê chẳng có hoa
(Tòng lai hồng hiện thủ thường sắc
Hữu diệp sâm si bất hữu hoa)
Hỏi:
- Nói “Ngôn ngữ đạo đoạn” (dứt hết nói năng) là nghĩa thế nào?(1)
Đáp:
- Gió thổi sừng kêu xuyên rặng trúc
Vầng trăng vượt núi đến bên tường
(Giốc hưởng tùy phong xuyên trúc đáo
Sơn nham đái nguyệt quá tường lai)
Hỏi:
- Chư Phật thuyết pháp đều nhằm giáo hóa mọi loài, nếu hiểu thấu bản ý thì gọi là “xuất thế”. Như thế nào gọi là “bản ý”?
Đáp:
- Xuân dệt hoa như gấm
Thu sang đổ là vàng
(Xuân chức hoa như gấm
Thu lại diệp tự hoàng)
Hỏi:
- Như thế nào gọi là “một đường đưa thẳng đến nguồn gốc của đại đạo”?
Đáp:
-Đông tây xe ngựa ruổi
Sớm tối bụi trần bay
(Đông tây xa mã tẩu
Trần thổ hiểu hôn phi)
Hỏi:
- Có tâm có pháp sinh võng thức
Làm sao tâm pháp thảy tiêu vong?
(Hữu pháp, hữu tâm khai võng thức
Như hà tâm pháp đãng câu tiêu)
Đáp:
- Khá vượt cành không cao tít tắp
Lo gì sương tuyết tả tơi bay
(Khả đoạt tùng sao trường uất uất
Khởi ưu sương tuyết lạc phân phân)
Hỏi:
- Ý của Tổ và ý trong kinh sách thế nào?
Đáp:
- Hứng lên xách gậy lên chơi đường núi
Mỏi mệt buông rèm ngủ chõng tre
(Hứng lai huề trượng du vân kính
Khốn tức thùy liêm ngọa trúc sào)
Hỏi:
- Các Tổ truyền cho nhau là truyền cái gì?
Đáp:
- Bụng đói kiếm cơm ăn
Lạnh mình lo áo mặc
Hỏi:
- Người đời phải đi thuê nhà, khi nhà dột thì ở vào đâu?
Đáp:
- Qua vàng cùng thỏ ngọc
Chẳng bợn lo đầy vơi
(Kim ô kiêm ngọc thế
Doanh trắc nạn lao phân)
Hỏi:
- Thế nào là con đường Tào Khê?
Đáp:
- Đáng thương kẻ vạch thuyền(1)
Khắp chốn biết tìm đâu!
(Khả lân khác chu khách
Đáo xứ ý thông thông)
Sư từng soạn sách Được sư thập nhị nguyện văn.Vua Lý Nhân Tông lấy bản thảo sách ấy đưa cho sử giả nước ta đem sang Trung Quốc để tặng cho vua Triết Tông nhà Tống. Vua Tống trao cho vị pháp sư cao tọa ở chùa Tướng Quốc xem. Pháp sư xem xong chấp tay tâu với vua Tống:
- Ở nước Nam có vị Bồ tát sống đã ra đời, giảng giải kinh nghĩa rất tinh vi, chúng tôi đâu dám thêm bớt chữ nào.
Vua tống sai chép lại một bản, còn bản chính giao lại cho sứ giả đem về Sứ giả trở về tâu lại sự việc, vua Lý Nhân Tông rất khen ngợi, ban thưởng cho sư rất trọng hậu.
Ngày tháng 9 năm Canh Ngọ niên hiệu Quảng Hựu thứ 6 (1090) sư không bệnh, cho gọi đệ tử đến bảo rằng:
- Thân mình ta đây, xương thịt gân cốt đều do bốn đại hợp thành, tất không thể thường tồn được. Cũng như khi khung nhà đã hư hỏng thì rui, mè đều rơi rụng. Các người hãy trân trọng lời kể của ta đây:
Thân như tường bích dĩ đồi thì
Cử thế thông thông thục bất bi
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng
Sắc không ẩn hiển nhậm suy đi.
Dịch:
Thân như tường vách đá lung lay
Lật đật người đời những xót thay
Nếu được “lòng không” không tướng sắc
“Sắc” “không” ẩn hiện mặc vần xoay.
NGÔ TẤT TỐ
(VHĐL)
Đọc kể xong, sư nghiêm trang qua đời, thọ 92 tuổi đời, 56 năm tuổi hạ(1). Sự có các sách: Tán Viên Giác kinh, Thập nhị Bồ Tát Hành tu chứng đạo tràng và Tham đồ hiển quyết,một quyển, lưu hành ở đời.
*
* *
Thiền sư CỨU CHỈ
Chùa Diên Linh(1), núi Long Đội, huyện An Lang.
Thiền sư họ Đàm, quê ở hương Phủ Đàm, huyện Chu Minh, từ nhỏ hiếu học, đọc khắp các sách kinh điển Nho, Phật. Một hôm ông gập sách lại, than rằng:
- Khổng, Mặc cố chấp cái “hữu” (có). Lão, Trang chìm đắm cái “vô” (không), sách vở thế tục không phải là phép giải thoát. Chỉ có Phật giáo là không chấp không và có liễu thoát sinh tử, nhưng phải tu trì giữ giới tinh tiến. Lại phải tìm người thiện trí thức ấn chứng mới được.
Nhân đó ông rời bỏ thế tục, tìm đến thụ giới cụ túc với Định Hương trưởng lão ở chùa Cảm Ứng núi Ba Sơn. Sư hỏi trưởng lão:
- Thế nào là nghĩa cứu cánh?
Định Hương đáp: “Chưa”! Một lát lại nói:
- Ta và ngươi là nghĩa cứu cánh rồi đấy!(1)
Sư còn đang nghĩ ngợi, trưởng lão nói:
- Sai quá rồi!
Ngay lúc ấy, sư lĩnh hội được ý chỉ của trưởng lão. Định Hương nhân đó đặt tên cho sư là Cứu Chỉ.
Sau sư vào chùa Trùng Minh ở núi Tiên Du tu hạnh Đầu đà, cả năm không hề bước chân xuống núi. Thanh danh giáo huấn cảm hóa của sư lan đến triều đình. Vua Lý Thái Tông đến chùa thăm hỏi. Thái sư Lương Nhậm Văn(2)đối với sư cũng rất kinh nể. Khoảng niên hiệu Long Thụy Thái Bình (1054 – 1058, đời Lý Thánh Tông) tể tướng Dương Đạo Gia thỉnh sư về trụ trì chùa Diên Linh. Sư cố từ chối nhưng không được. Hôm xuống núi, sư bảo các đệ tử.
- Ta không trở lại nơi đây nữa!
Chim muông trong núi nháo nhác kêu buồn bã suốt ba tuần liền.
Sự trụ trì ở chùa Diên Linh chỉ được hơn ba năm. Trong niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1059 – 1065) trước khi thị tịch, sư gọi học trò đến bảo rằng:
- Hết thảy mọi pháp môn đều bắt nguồn từ tính, hết thảy mọi pháp tính đều bắt nguồn từ tâm. Tâm và Pháp là một, đâu phải là hai. Trói buộc, phiền não, tất cả đều không. Tội phúc, thi phi, tất cả đều ảo. Chẳng cái gì không phải là quả, chẳng cái gì không phải là nhân. Chớ có phân biệt báo từ trong nghiệp(1), chớ có phân biệt nghiệp từ trong báo. Nếu phân biệt là không thể tự tại. Tuy thấy hết mọi pháp nhưng không thấy gì; tuy biết hết mọi pháp nhưng không biết gì. Biết mọi pháp ở chỗ nhân duyên là gốc, thấy mọi pháp ở chỗ chính chân là nguồn. Tuy đắm trong thực tế phải hiểu rằng thế gian đều như biến hóa. Người minh đạt và chúng sinh chỉ là một pháp, không phải hai pháp. Không rời bỏ nghiệp cảnh, đó là phương tiện thiện xảo. Trong giới hữu vi chỉ rõ pháp hữu vi và không phân biệt với tướng vô vị(2), đó là muốn dứt vọng niệm so đo của ta vậy.
Nói xong sư đọc lời kể:
Giác liễu thân tâm bản ngưng tịch
Thần không biến hóa hiện như tướng
Hữu vi, vô vi tòng thử xuất
Hà sa thế giới bất khả lượng
Tuy nhiên biến mãn hư không giới
Nhất nhất quan lại một hình trạng
Thiên cổ vạn cổ nan tỉ huống
Giới giới xứ xứ thường lãng lãng.
Dịch:
Hiểu thấu thân tâm vốn lặng thường
Thần thông mọi tướng biến khôn lường
Tác “hữu”, tác “vô” do đó cả
Hà sa thế giới há đong lường
Hư không mọi cõi tràn đầy khắp
Hình trạng xem ra thảy thảy không
Muôn đời nghìn thuở khôn tày sánh
Chốn chốn nơi sáng lạ đường.
Đúng ngọ hôm ấy dựng đàn hỏa thiêu, học trò thu linh cốt xây tháp phúng thờ.
*
* *
Thiền sư BẢO TÍNH
(?-1034)
Thiền sư MINH TÂM
(?-1034)
Chùa Cảm Ứng, núi Ba sơn, phủ Thiên Đức.
Hai thiền sư đều người huyện Chu Minh. Bảo Tính họ Nghiêm, Minh Tâm họ Phạm, cùng một tuổi, xuất gia làm bạn với nhau từ nhỏ. Lúc đầu, Bảo Tính, Minh Tâm cũng Viên Chiến đều thụ nghiệp với Định Hương trưởng lão, thấu hiểu những điều cốt yếu của Thiền tông. Sau ba người dược truyền tâm ấn, đi các nơi để giáo hóa chúng sinh, nổi tiếng nhất trong chốn tùng lâm thời bấy giờ. Viên Chiểu từng có thơ khen Bảo Tính là người có chí cao thượng (Tập này đã có chuyện riêng về Viên Chiếu, ở đây không nhắc lại)
Hai sư chuyên trì tụng kinh Pháp hoa,hơn mười năm chưa từng sao nhãng, mỗi khi niệm đến phẩm Dược Vương, hai sư đều rơi nước mắt mà bảo nhau:
- Các vị Bồ Tát dốc lòng tu hành trong bao nhiêu kiếp mà đối với tâm Đại Thừa vẫn còn phải phấn phát mạnh mẽ để tinh tiến, không tiếc thân mạng. Huống chi bọn ta sống ở thời mạt pháp, nếu không có lòng chí thành như thế thì đối với chân tâm đại Bồ Đề của Đại Thừa làm sao có thể hy vọng được?
Ngày tháng tư năm Thiên Thành thứ 7 (1034), hai sư định tự thiêu. Vua Lý Thái Tông biết tin sai sứ thỉnh về kinh. Hai sư bèn mở hội giảng kinh rồi cùng vào trong lửa hoả quang tam muội(1), di cốt kết thành thất bảo, vua xuống chiếu đem thất bảo ấy giữ ở chùa Trường Thánh để cúng đường Lý Thái Tông cho là việc kinh dị, đổi niên hiệu là Thông Thụy (1034) sai dựng tháp cúng đường.
*
* *
Thiền sư QUẢNG TRÍ
Chùa Quán Đính, núi Không Lộ.
Thiền sư họ Nham, người kinh đô Thăng Long, là anh của Chương Phụng hoàng phi. Ông là người có tiết tháo thanh cao không để ý đến những điều nhỏ mọn. Khoảng đầu niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065), ông bỏ tục tìm đến tham vấn thiên sư Thiền Lão ở Tiên Du. Chỉ nghe một câu nói của Thiền lão sư lãnh hội được yết chỉ Thiền tông. Từ đó sư ngày đêm dốc chí vào Thiền học. Chưa đầy một năm, danh tiếng đồn khắp gần xa. Về sau sư trụ trì ở núi Không Lộ, mặc áo vá, ăn hạt, kết bạn với sơn tăng Minh Huệ. Người ta thường gọi là Hàn Sơn, Thập Đắc tái thế(1).
Sư đương công bố thượng thư Đoàn Văn Khâm kính trọng(2)tặng thơ:
Trụ tích nguy phong bãi lục trần
Mặc cư ảo mộng vấn phù vân
Ân cần vô kế tham Trừng Thập
Sách bạn trăm anh tại lộ quần
Dịch thơ:
Chống gậy non cao rũ bụi đời
Nằm trong mộng huyễn ngắm mây trôi
Ân cần khôn khéo theo Trừng, thập(3)
Trói vướng bầy cò lớp mũ đai
NGÔ TẤT TỐ
(VHĐL)
Trong niên hiệu Quảng Hựu (1085 – 1091) sư quy tịch. Đoàn thượng thư thương khóc thảm thiết, làm thơ viếng như sau:
Lâm mao bạch thủ độn kinh thành
Phất tụ cao sơn viễn cánh kinh
Kỷ nguyện tịnh cân xu trượng tịch
Hốt văn di lý yểm thiền quynh
Trai đình u điểu không đề nguyệt
Mộ tháp thùy nhân vị tác minh
Đạo lữ bất tu thương vĩnh biệt
Viện tiền sơn thủy thị chân hình.
Dịch thơ:
Lánh chợ vào rừng tóc bạc phơ
Non cao rũ áo ngát hương thừa
Trùm dép những muốn hầu bên chiếu
Treo giáp đà nghe khép cửa chùa
Trăng dọi sân trai, chim khắc khoải
Tháp không bia chữ, mộ thờ ơ
Bạn thiền thôi cũng đừng thương xót
Non nước ngoài am, đó dáng xưa
NGÔ TẤT TỐ
(VHĐL)
Vua LÝ THÁI TÔNG
Nhà Vua thường đến tham vấn những điều yếu chỉ của đạo thiền với thiền sư Thiền Lão ở núi Thiên Phúc. Những lời chỉ giáo của Thiền sư như mũi kim, mũi dùi, vừa châm vào, vua liền thấy trí não thông sáng. Chỉ trong vòng mấy năm, vua trở thành người ham thích đạo Thiền. Nhân đó, vua cùng các bậc túc thiền, trưởng lão giảng cứu, bàn luận những điều dị đồng. Vua nói trước với mọi người:
- Trẫm nghĩ bàn tới nguồn tâm của Phật tổ, các bậc thánh hiền thuở xưa còn không tránh khỏi điều tiếng chê bai, huống chi là những kẻ hậu học. Nay trẫm muốn cùng các sư giãi bầy tâm ý của mình. Mỗi người hãy làm một bài kệ để xem sự dụng tâm của từng người như thế nào?
Các sư đều vâng mệnh. Mọi người còn đang tìm ý tứ thì vua đã làm xong. Bài kệ như sau:
Bát Nhã chân vô tông
Nhân không, ngã diệc không
Quá, hiện, vị lai Phật
Pháp tính bản lai đồng.
Dịch:
“Bát Nhã” Thực vô tông
Người không, mình cũng không
Phật trước, nay, sau nữa
Pháp tính vốn tương đồng
NGÔ TẤT TỐ
(VHĐL)
Mọi người đều phục vua có tài ứng đối nhanh lẹ.
Thế hệ thứ tám
6 người
Quốc sư THÔNG BIỆN
(? – 1134)
Chùa Phổ Ninh, huyện Từ Liêm.
Quốc sư người hương Đan Phương, họ Ngô, vốn dòng dõi Phật tử, bản tính thông tuệ, học thông tam giáo
Lúc đầu sư tham vấn thiền học, đắc pháp với thiền sư Viên Chiếu(1)ở chùa Cát Tường. Sau đó có chiếu chỉ triệu về kinh đô Thăng Long trụ trì chùa Khai Quốc, sư tự xưng hiệu là Trí Không Mùa xuân năm Hội Phong thứ 5 (1096), ngày rằm tháng hai, Phù Thánh Cảm Lính Nhân hoàng thái hậu(2)đến chùa thiết lễ trai tăng. Trong lúc đàm đạo với các bậc túc tăng kỳ lão, thái hậu hỏi:
- Phật và Tổ nghĩa thế nào? Ai hơn ai kém? Phật trụ phương não? Tổ ở thành nào? Đến nước ta từ bao giờ? Việc truyền đạo ai trước ai sau? Mà người niệm tên Phật đạt tâm ấn của Tổ chưa rõ là những ai?
Bấy giờ mọi người đều im lặng cả, sư thừa rằng:
- Thường trụ ở thế gian, không sinh không diệt thì gọi là Phật. Hiểu rõ tâm tông của Phật, giảng và làm đi đôi với nhau, gọi là Tổ. Chỉ vì những kẻ kém học nói bậy là có bên hơn bên kém mà thôi. Và lại Phật có nghĩa là “Giác” (hiểu biết) vốn lặng lẽ, thường trụ, tất cả chúng sinh đều có cùng lẽ ấy. Chỉ vì tình trần che lấp, trôi nổi theo nghiệp báo mà phân ly ra các cõi Phật vì lòng từ bi mà thị sinh ở đất Thiên Trúc, là vì xứ sở ấy ở vào khoảng chính giữa của trời đất. Phật mười chín tuổi xuất gia, ba mươi tuổi thành đạo. Ở đời thuyết pháp bốn mươi chín năm, mở ra, các pháp môn để giác ngộ cho người đời. Đấy là thời đại hưng giáo vậy. Khi sắp nhập Niết Bàn, lại sợ người ta hiểu làm ý mình, Phật bèn bảo Văn Thù(1): “Ta bốn mươi chín năm chưa từng nói một lời, sao lại bảo là ta có thuyết giáo ư?” Nhân đó Phật cầm cành hoa giơ lên. Mọi người đều chưa hêỉu Phật nói ý gì. Chỉ một mình Ca Diếp tôn già mỉm cười. Phật Biết Ca Diếp đã lĩnh ngộ, bèn đem chánh pháp nhãn tạng(2)truyền cho. Đó là Tổ thứ nhất của dòng Tầm tông, được trao truyền bên ngoài giáo điển(1)
Sau đó ma Đằng(2)đem pháp ấy vào đất Hán. Rồi Đạt Ma đem tống chỉ sang các nước Lương, Ngụy. Việc truyền pháp đến Thiên Thai trì giả(3)là thịnh, gọi là Giáo tông. Về tôn chí của Đạt Ma thì đến Tào Khuê Huệ Năng là sáng tỏ, gọi là Thiền Tông. Hai tông này truyền vào nước Việt ta đã lâu năm. Về Giáo tông thì có Mâu Bác(4), Khương Tăng Hội(5). Thiền tông thì có phái Tì Ni Đa Lưu Chi(1)vào trước, phái Vô Ngôn Thông vào sau. Đó là tổ của hai phái.
Thái hậu hỏi:
- Về Giáo tông thì chưa nói tới, nhưng còn hai phái Thiền tông thì có gì chứng thực không?
Sư đáp:
- Xét truyện Đàm Thiên pháp sư thầy chép rằng: vua Tùy Cao Tổ (581-604) gọi sư là pháp khí và bảo: “Trẫm nghĩ đến đạo từ bi của Điều Ngự(2)mà không biết làm sao để báo đáp ân đức. Trộm ở ngôi vua, trẫm đã hỗ trợ Tam bảo(3)khắp nơi: trong nước thì thu xá lị xây 49 bảo tháp; ngoài nước thì dựng 150 chùa tháp để tiêu biểu cho đời. Ở các xứ ngoài như Giao Châu cũng đã nhiều lần cho dựng chùa để ơn phúc nhuần thấm khắp cõi đại thiên. Nhưng xứ ấy tuy vội thuộc mà ràng buộc còn lỏng lẻo. Vậy pháp sư nên chọn những vị sa môn có danh đức đưa sang đó để giáo hóa, khiến cho tất cả đều được đạo Bồ Đề”. Pháp sư Đàm Thiên tâu: “Xứ Giao Châu có đường không với Thiên Trúc. Khi Phật pháp mới đến Giang Đông chưa khắp thì ở Luy Lâu(4)đã có tới hai mươi ngôi bảo tháp, độ được hơn năm trăm vị tăng và dịch được mười lăm quyển kinh rồi”. Như vậy là Phật giáo đã truyền đến Giao Châu trước nước ta. Hồi ấy đã có các vị tăng như Ma Ha Kỳ Vực(1), Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương(2)Mâu Bác v.v... cư trú tại đó. Nay lại có Pháp Hiền thượng sỉ đắc pháp(3)với Tỉ Ni Đa Lưu Chi truyền bá tông phái của Tổ thứ ba Tăng Xán. Pháp Hiền là vị Bồ Tát sống, hiện trụ trì ở chùa Chúng Thiện, giáo hóa không dưới ba trăm môn đồ, không thua kém gì ở Trung Quốc. Bệ hạ là bậc cha hiền của khắp thiên hạ, muốn bố thí bình đẳng nên định đưa như tăng sang giáo hóa. Nhưng họ đã có người rồi, ta không phải cho người sang nữa. Lại có chứng cứ nữa: tướng quốc đời Đường là Quyền Đức Dư viết trong lời tựa sách Truyền pháp rằng: “Lại sau khi Tào Khê (Huệ Năng) mất, thiền pháp thịnh hành, các dòng đều có kẻ nối, thiền sư Chương Kính Huy đem những điều tâm pháp quan yếu của Mã Tổ đi thi hành giáo hóa ở miền Ngô, Việt. Vô Ngôn Thông đai sĩ đem tông chỉ của Bách Trượng Hoài Hải đi khai ngộ ở Giao Châu”. Đó là chứng cứ vậy.
Thái hậu lại hỏi:
- Sự truyền thừa của hai tông phái ấy thứ tự thế nào?
Sư đáp:
- Phái Ti Ni Đa Lưu Chi thì nay có Lâm Huệ Sinh, Vương Chân Không, Phái Vô Ngôn Thông thì có Mai Viên Chiếu, Nhan Quảng Trí. Dòng của Khương Tăng Hội thì nay có Lôi Hà Trạch. Ngoài ra những phái phụ thì nhiều không kể xiết.
Thái hậu cả mừng, phong sư làm Tăng thống, ban áo cà sa màu tía, ban hiệu là Thông Biện đại sư, hậu thưởng để tỏ rõ inh sủng. Sau Thái hậu lại thỉnh sư vào đại nội, phong làm quốc sư để tham vấn, nhờ đó hiểu sâu tôn chỉ của Thiền ông. Thái hậu có làm kệ Ngô Đạo như sau:
Sắc thị không, không tức sắc
Không thị sắc, sắc tức không
Sắc, không câu bất quản
Phương đắc khế chân tông.
Dịch:
Sắc mà không, không tức sắc
Không là sắc, sắc tức không
Sắc, không đều chẳng quản
Mời Khế hợp chân tông
HOA BẰNG
(TVLT 1)
Về già, sư trụ trì ở chùa Phổ Ninh, mở đàn thuyết pháp. Phàm việc dạy người, sửa mình sư thường dẫn dụng đến kinh Pháp Hoa, vì vậy người đương thời gọi sư là Ngô Pháp Hoa(1)
Ngày mười hai tháng hai năm Giáp Dần niên hiệu Thiên Chương Báo Tự thứ 2 (1134) sư lâm bệnh rồi qua đời(2).
*
* *
Đại sư MÃN GIÁC
(1052-1096)
Chùa Cứu Liên Giáo Nguyên.
Đại sư Người Lũng Triền, hương An Cách, họ Nguyễn(1)huý Trường. Cha là Hoài Tố, làm quan đến chức Trung thư viên ngoại lang.
Khi Lý Nhân Tông còn là thái tử, đã có chiếu chỉ cho con em các danh gia vào hầu trong cung. Ông vốn là người học rộng, nhớ giỏi, học thông Nho, Phật nên được chọn vào trong số đó. Những lúc ở nhà thường suy niệm Thiền na(2). Sau khi lên ngôi, Nhân Tông mến tính tình ông thuần hậu chất phác, ban hiệu là Hoài Tín. Trong khoảng niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thắng (1076-1084)(3)ông dân biểu xin xuất gia. Sau khi được thiền sư Quảng Trí ở chùa Quán Đính truyền tâm ấn, sư đeo bình bát đi vân du khắp nơi tìm đạo hữu. Sư đi đến đâu cũng có rất đông người đến xin theo học đạo. Sư đọc kinh Đại Tạng, đạt được tri thức không phải nhờ thầy, trở thành lãnh tụ pháp môn của một thời.
Khi ấy vua nhà Linh Nhân hoàng thái hậu đang lưu tâm Thiền học, cho dựng chùa Cứu Liên Giáo Nguyên ở bên cạnh cung Cảnh Hưng, thỉnh sư đến trụ trì để tiện hỏi han về đạo Phật. Khi nói chuyện, vua và hoàng hậu thường gọi sư là trưởng lão chứ không gọi tên. Một hôm vua nói với sư:
- Bậc chí nhân thị hiện tất phải làm việc cứu giúp chúng sinh, không hạnh nào không cần có đủ, không việc gì không phải chăm lo, chẳng phải chỉ sức định tuệ mà cũng có công giúp ích nên phải kính nhận nó.
Rồi vua phong cho sư làm Hoài Tín đại sư, đứng đầu Giáo Nguyên thiền viên để truyền thụ tâm ấn vô tu vô chứng của Phật tổ. Vua lại xuống chiếu phong cho sư chức Nhập nội đạo trầng Tử y đại sa môn, được dư bàn chính sự, ngang hàng với các quan tam ti, miễn tô thuế cho năm mươi hộ để chi dùng việc đạo.
Ngày ba mươi tháng một năm Hội Phong thứ 5 (1096) sư lâm bệnh, gọi đệ tử đến đọc kệ rằng:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân lai bách hoa khai
Sự trục nhân tiền quá
Lão tòng đầu thượng đáo
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Dịch:
Xuân ruổi, trăm hoa rụng
Xuân tới, trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước, một cành một mai.
NGÔ TẤT TỐ
(VHĐL)
Đêm ấy sư ngồi kiết già thị tịch, thọ 45 tuổi, được mười chín tuổi hạ. Vua Lý Nhân tông ban lễ hậu, các quan công khanh đều đến dâng hương làm lễ hóa táng rồi thu xá lỵ xây tháp tại chùa Sùng Nham ở hương An cách để phụng thở. Vua ban cho sư tên thụy là Mãn Giác.
*
* *
Thiền Sư NGỘ ẤN.
(1020-1088)
Chùa Long An, Ninh Sơn(1), phủ Ứng Thiên.
Thiền sư người Tư Lý, hương Kim Bài, họ Đàm, tên Khí. Mẹ họ Cù, khi chưa lấy chồng nhà ở cạnh nghĩa địa gần khu rừng, thấy người ta đặt bẫy bắt hết cả chim bà nói: “Thà chết mà làm người thiện còn hơn sống mà làm kẻ ác”. Một hôm bà đang ngồi dệt vải có con khỉ lớn từ trong rừng chạy ra ôm lấy lưng bà suốt ngày mới bỏ đi. Sau đó bà biết mình có mang. Đến khi sinh ra, đứa con mặt mũi xấu xí, bà lấy làm ghét, bèn đem bỏ vào rừng. Trong hương có sư cụ người Chiêm Thành họ Đàm trông thấy đem về nuôi, nhân đó đặt tên là Khí (có nghĩa là vứt bỏ). Đến năm lên mười, ông theo học Nho, học vấn ngày một tăng tiến, giỏi cả chữ Hán và chữ Phạn. Năm mười chín tuổi xuất gia, chịu đủ giới luật(2), nghiên cứu tinh thông cả hai kinh Viên giácvà Pháp hoa.Sau khi được thiền sư Quảng Trí ở chùa Quán Đính truyền tâm ấn, sư bèn đến núi Ninh Sơn kết am tranh làm chỗ ở, lấy hiệu là Ngộ Ấn. Có tăng khách thỉnh vấn:
- Thế nào là đại đạo?
Sư đáp:
- Con đường lớn.
Khách hỏi:
- Kẻ học này hỏi về đại đạo, thế mà hòa thượng lại đáp là con đường lớn”, đệ tử chưa biết đến bao giờ thì đạt tới đại đạo.
Sư đáp:
- Mèo con(1)chưa biết bắt chuột!
Khách hỏi:
- Mèo con có Phật tính không?
- Không.
- Tất cả những vật hàm linh đều có Phật tinh, sao hòa thượng lại nói mèo con không có?(2)
- Không, ta chẳng phải là vật hàm linh.
- Không phải vật hàm linh, vậy hòa thượng là Phật chăng?
- Ta chẳng phải Phật, cũng chẳng phải vật hàm linh.
Lại có người hỏi:
- Thế nào là Phật, Pháp và Thiền?
Sư đáp:
- Đấng Vô thượng pháp vương ở thân là Phật, ở miệng là Pháp, ở tâm là Thiền. Tuy là ba nhưng quy lại chỉ là một, cũng ví như nước ở ngã ba sông, tuỳ chỗ mà đặt tên. Tuy tên gọi không giống nhau nhưng tính nước thì không khác.
Ngày 14 tháng sáu năm Quảng Hựu thứ 4 (1088) khi sắp thị tịch sư đọc lời kệ sau:
Diệu tính hư vô bất khả phan
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận
Liên pháp lô trung thấp vị can
Dịch:
Hư vô tính diệu khó vin noi
Riêng bụng hư vô hiểu được thôi
Trên núi ngọc thiêu, màu vẫn nhuận
Trong lò sen nở sắc thường tươi
NGÔ TẤT TỔ
(VHĐL)
Đọc xong sư thanh thản qua đời, thọ 69 tuổi. Học trò để tâm tang ba năm.
*
* *
Thiền sư ĐẠO HUỆ
(?-1073)
Chùa Quang Minh, núi Thiên Phúc, huyện Tiên Du.
Thiền sư người hương chân Hộ, quận Như Nguyệt, họ Âu, tướng mạo đoan chính, giọng nói trong trẻo. Từ năm 25 tuổi xuất gia theo hầu sư Ngô Pháp Hoa(1)ở chùa Phổ Ninh học hỏi được nhiều điều uyên áo của cửa huyền. Sau sư đến trụ trì chùa Quang Minh, giữ nghiêm giới luật, chuyên tu thiền định, trong vòng sáu năm lưng không bén chiếu, hiểu sâu phép Tam quán Tam ma địa, học trò đông đến hơn một nghìn người. Tiếng sư tụng kinh ngày đêm cảm hóa cả khỉ vượn trong núi, khiến chúng kéo từng đàn đến chùa nghe kinh. Vì thế danh tiếng của sư vang truyền đến kinh đô.
Năm Đại Đính thứ 20 (1159 đời Lý Anh Tông) hoàng phi Thụy Minh bị ốm, vua sai sứ vời sư đến xem bệnh. Ngày sư lên đường khỉ vượn gào khóc quyến luyến. Khi sư vào cung, vừa đến cửa phòng của hoàng phi thì bệnh của phi bèn khỏi. Vua Lý Anh Tông mừng lắm, mời sư nghỉ lại ở tân quán trong chùa Báo Thiên. Trong khoảng 1 tháng, các quan công khanh, đạo hữu hâm mộ danh tiếng đến tham thính nhiều không kể xiết. Sư bèn đến thuyết pháp ở nhà giảng. Từ đó sư không về núi nữa. Tăng chúng các nơi đến xin làm đệ tử rất đông.
Ngày mồng một tháng 8 năm Ất Hợi niên hiệu Chính Long Bảo ứng thứ 10 (1173), sư lâm bệnh, than rằng:
- Loạn li lan rộng, do đâu mà xẩy ra?
Nói đoạn đọc lời kệ rằng:
Địa, thủy, hỏa, phong, thức
Nguyên lai nhất thiết không
Như văn hoàn tụ tán
Phật nhật chiếu vô cùng.
Dịch:
Đất, nước, lửa, gió, thức
Hết thảy vốn đều “không”
Như mây tan rồi tụ
Phật nhật chiếu không cùng
Sư lại nói:
Sắc thân dữ diệu thể
Bất hợp bất phân ly
Nhược nhân yếu chân biệt
Lô trung hoa nhất chi.
Dịch:
Sắc thân và diệu thể
Chẳng hợp, chẳng lìa xa
Kẻ nào toan tách biệt
Lò lửa, một cành hoa.
HOÀNG LÊ
(TVLT 1)
Canh ba đêm ấy sư lặng lẽ qua đời. Học trò là Quách tăng thống lo liệu lễ vật, đưa thi hài sư về quận nhà làm lễ hóa táng rồi xây tháp ở bên cạnh chùa Long Khám núi Tiên Du, một phần xá lị đem về thờ ở Vạn Tuế tại Thăng Long.
*
* *
Thiền sư BIỆN TÀI
Người Quảng Châu (Trung Quốc), đến nước ta vào thời Lý Thánh Tông (1054 – 1071) nối pháp tự của Thông Biện quốc sư, từng vâng sắc chỉ biên sửa sách Chiếu đối lục.
Thiền sư BẢO GIÁM
(? -1173)
Chùa Bảo Phúc, quận Mỹ Lãng(1).
Thiền sư người hương Trung Thụy, họ Kiều, tên Phù, là người trung tín, kính cẩn, chân thực, chất phác, điềm đạm. Từ nhỏ theo Nho học, có tài viết chữ đẹp, các sách Thi, Thư, Lễ,Dịch không sách nào không để tâm nghiên cứu. Dưới triều vua Lý Anh Tông, ông làm quan đến chức Cung hầu xá nhân. Năm ba mươi tuổi xin thôi việc quan, đến chùa Bảo Phúc ở hương Đa Vân xin xuất gia. Các sách kinh tàng ở chùa ấy đều do tay sư chép. Sau khi sư trụ trì chùa quy tịch, sư tiếp nối làm trụ trì. Chẳng mấy chú ý đến bản thân, sư thường ăn vận đồ sô gai, hàng tơ lụa không bao giờ dùng đến. Năm này qua năm khác cứ giữ một mực như thế. Lúc nghỉ ngơi, sư thường bảo học trò:
Muốn lên cỗ xe truyền đạo của Phật thì phái siêng năng. Muốn thành tựu được sự chính giác của Phật thì phải có trí tuệ. Cũng như người bắn cung, ngoài một trăm bước thì phải dùng sức để bắn tới nơi, nhưng để trúng đích thì không cần dùng sức vậy.
Ngày 7 tháng 5 năm Chính Long Bảo ứng thứ 11 (1173) khi sắp viên tịch, sư đọc bài kệ rằng:
Đắc thành chính giác hãn băng tu
Chỉ vị lao lung tri tuệ(1)ưu
Nhận đắc ma ni huyền diệu lý
Chỉ như thiên thượng hiểu kim ô.
Dịch:
Mấy ai thành Phật ở tu hành?
Chỉ trói cùm thêm tri óc mình
Thấu lẽ huyền vi trong ngọc sáng
Là vầng dương hiện giữa trời xanh
NGUYỄN ĐỒNG CHI
(TVLT 1)
Lại một bài khác:
Tri giả do như nguyệt chiếu thiên
Quang hàm trần sát chiếu vô thiên
Nhược nhân yếu thức tu phân biệt
Lĩnh thượng phù sơ tỏa mộ yên.
Dịch:
Trí tuệ như trăng chiếu khắp trời
Sáng trùm trần thế chẳng riêng ai
Ví người hiểu lẽ không phân biệt
Núi phủ mây chiều cây cỏ tươi
ĐàO PHươNG BINH
(TVLT 1)
Sư nói lời cuối:
- Cả Tâm và Ý của Như lai đều không thể hiểu hết được. Chỉ có thể dùng Vô lượng Tri mới biết được. Cho nên biết Tâm Như lai như hư không là chỗ dựa cho tất cả. Trí tuệ của Như lai cũng là như thế.
Nói xong sư qua đời, môn đồ thu xá lị xây tháp phụng thời.
*
* *
Thiền sư KHÔNG LỘ
(?-1119)
Chùa Nghiêm Quang, hương Hải Thanh (1)
Thiền sư họ Dương, người Hải Thanh, nhà mấy đời làm nghề đánh cá, sau bỏ nghề theo tu hành đạo Phật. Sự chuyên chú tu trì pháp môn Đà La Ni (Dharàni).Khoảng niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1059 – 1065, đời Lý Thánh Tông), sư cùng đạo hữu là Giác Hải đi vân du cõi ngoài, dấu kín tông tích, đến chùa Hà Trạch, ăn rau mặc lá, quên cả thân mình, dứt hết mọi điều mong muốn, một lòng chuyên chú tu tập thiền định. Rồi sư thấy tâm thần, tai mắt ngày càng sáng láng thông tỏ, bay trên không, đi dưới nước, hàng long phục hổ, muôn nghìn phép lạ không lường hết được. Sau sư về bản quận dựng chùa trụ trì.
Một hôm người hầu đến thưa với sư:
- Đệ tử từ khi đến đây chưa được hòa thượng chỉ giáo tâm yếu. Nay có bài kệ xin trình hòa thượng:
Đoàn luyện hâm tâm thủy đắc thanh
Sum sum trực cán đối hư đình
Hữu nhân lai vấn Không vương pháp
Thân tọa bình biên ảnh tập hình.
Dịch:
Rèn luyện thâm tâm tựa nước thanh
Sân thênh cổ thụ tỏa sum cành
Có người thỉnh giáo nguồn pháp Phật
Lưng dựa bình phong, bóng tựa hình.
Sư xem xong nói:
- Ngươi đem kinh đến, ta nhận, đem nước đến, ta uống, sao bảo ta không truyền tâm yếu?
Nói đoạn sư ha hả cười vàng. Sư từng đọc bài kệ:
Tuyển đắc long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thì trực thướng cô phong dính
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.
Dịch:
Kiểu đất long xà chọn được nơi
Tình quê lai láng chẳng hề vơi
Có khi xông thẳng lên đầu núi
Một tiếng kêu vang, lạnh cả trời
KIỀU THU HOẠCH
(TVLT)
Ngày 3 tháng 6 năm Kỷ Hợi niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ 10 (1119) sư thị tịch. Môn nhân thu xá lị táng [ở tháp] trước cửa chùa. Vua Lý Nhân Tông cho sửa sang mở rộng chùa Nghiêm Quang, miễn tô thuế cho 20 hộ để đèn hương phụng thờ.
(Tuổi thọ của sư không khảo được. Nay theo thế thứ truyền pháp ở sách Nam Tông đồ(1)ghi lại tại đây).
Thiền sư BẢN TỊNH
(1100-1176)
Am Bình Dương, núi Kiệt Đặc, huyện Chí Linh.
Thiền sư họ Kiều, người hương Phù Diễn, quận Vĩnh Khang. Thuở nhỏ ông hiếu học, hiểu sâu lẽ sinh tử huyền vi của đạo Phật, sửa mình theo đạo đức nhân nghĩa của nhà Nho. Sau ông xuất gia, đắc pháp với thiền sư Mãn Giác ở chùa Giáo Nguyên. Năm Đại Định thứ 2 (1141, đời Lý Anh Tông) sư đến trụ ở núi Kiệt Đặc. Quan hữu bật Ngụy Quốc Bảo kính phục đạo đức của sư kính lễ như thầy. Sau sư nhận lời thỉnh của thánh Dương công chúa đến trụ trì chùa Kiền An ở kinh đô Thăng Long. Sư có bài kệ phát nguyện như sau:
Thế thế sinh sinh
Bất muội phật chỉ
Tự giác giác tha
Vô gian bỉ thứ
Phương tiện đề huề
Nhập ư nhất quỹ.
Dịch:
Kiếp kiếp đời đời
Không mờ ý Phật
Tự giác, giác tha
Không chia ta – vật
Phương tiện giúp nhau
Lối chung bước gấp
MAI XUÂN HẢI
Ngày tháng giêng năm Trinh Phù thứ nhất (1176) đời Lý Cao Tông), sư không bệnh gọi đệ tử đến bảo rằng:
Nhất quỹ nhất quỹ
Thạch miêu dao vĩ
Trịch thân tróc thử
Hoàn hóa vi quỷ
Nhược yếu phân minh
Kim sinh lệ thủy.
Dịch:
Một nẻo, một nẻo
Mèo đá vẫy đuôi
Lao tới vồ chuột
Lại hóa thành quỷ
Nếu mà rõ được
Vàng sinh lệ thủy(1)
MINH CHI
Lại đọc bài kệ:
Huyền thân bản tự không tịch sinh
Do như kính trung xuất hình tượng
Hình tượng giác liễu nhất thiết không
Huyễn thân tu du chứng thực tướng.
Dịch:
Thân huyễn vốn từ không tịch sanh
Dường tựa trong gương hiện bóng hình
Hiển rành hình tượng là không huyễn
Thân huyễn phút giây chứng thực tướng
MINH CHI
Đọc kệ xong, sư qua đời, thọ 77 tuổi.
*
* *
Thế hệ thứ mười
12 người, chép thiếu 2 người
Thiền sư MINH TRÍ
(?-1196)
Chùa Phúc Thánh, hương Điển Lãnh.
Sư họ Tồ, còn pháp danh là Thiền Trí, người hương Phù Cầm(1). Ông bẩm tính thông minh, đọc rộng các sách. Đến tuổi trưởng thành có nhân duyên được gặp Đạo Huệ thượng sĩ, bèn bỏ Nho học, mặc áo cà sa, thỉnh vấn được yếu chỉ của đạo huyền. Sư thông hiểu tôn chỉ các kinh Viên giác, Nhân vương, Pháp hoa truyền giảng không biết mệt, được Đạo Huệ đặt cho pháp danh là Minh Trí.
Một hôm sư đang cắt cỏ, có vị tăng khách khoanh tay đến đứng bên cạnh. Sư nhanh tay vung liềm về phía tăng khách, cắt một bụi cỏ. Tăng khách hỏi:
- Người xưa nói: Hòa thượng cắt được cái gì đấy?
Sư giơ cái liềm lên. Tăng khách đỡ lấy rồi vùng tay làm một động tác như cắt cỏ. Sư nói:
- Còn nhớ câu nói sau của ngươi không? Người chỉ cắt được cái kia chứ không cắt được cái này.
Tăng khách thôi hỏi, bỏ đi.
Sư kể lại cho tăng đồ khách nghe chuyện ấy. Vị tăng đồ đứng cạnh nói:
- Người nói là Văn Thù, kẻ im lặng là Duy Ma(1)
Sư nói:
- Không nói không lặng, chẳng phải là ngươi sao?
Vị tăng ấy nhận là phải. Sư hỏi:
- Sao không hiện pháp thần thông?
Tăng đáp:
- Đệ tử không từ chối. Nhưng hiện pháp thần thông chỉ sợ hòa thượng thu vào trong đạo.
Sư nói:
- Thế là ngươi chưa phải đã có con mắt của tông phái Giáo ngoại(2)
Nói đoạn sư đọc kệ rằng:
Giáo ngoại khả biệt truyền
Hy di Tố, Phật uyên
Nhược nhân dục biện đích
Dương diệm mịch cầu yên.
Dịch:
Giáo ngoại khá riêng truyền
Phật, Tổ đạo uyên nguyên
Nếu mong thấy rõ đích
Hãy tìm mây khói lúc nắng xuân lên!
Năm Bính Thìn niên hiệu Thiên Sư Gia Thụy thứ 11 (1169 đời Lý Cao tông) trước khi thị tịch, sư đọc bài kệ:
Tùng phong thủy nguyệt minh
Vô ảnh diệc vô hình
Sắc thân giá cá thị
Không không tầm hưởng thanh.
Dịch:
Thông reo trăng nước sáng
Không ảnh cũng không hình
Sắc thân cũng thế vậy
Hư không tìm tiếng vang!
Đọc kệ xong, sư lặng yên qua đời
*
* *
Thiền sư TÍN HỌC
(?-1190)
Chùa Quán Đính, núi Không Lộ.(1)
Thiền sư người hương Chu Minh, phủ Thiên Đức, họ Tô, gia đình mấy đời làm nghề khắc ván in kinh. Từ nhỏ sư đã sống thanh tịnh, không giao du hỗn tạp. Ba mươi hai tuổi theo Du thiền sư đến núi Tiên Du, theo hầu thiền sư Đạo Huệ trong khoảng ba năm, hiểu sâu tông chỉ. Sau đó sư một mình một gậy đi vân du, rồi dừng lại trụ trì chùa Quán Đính. Sư đứng trước tượng Phật đốt ngón tay phát nguyện:
- Đệ tử này đã bao kiếp lao khốn trong vòng trần ai. Nay xin dứt hẳn không quay lại nữa.
Sư chuyên tâm nghiên cứu chép Tam quán của kinh Viên giác.Trong nhiều năm, hàng ngày chỉ ăn một bữa, hình dung khô héo tiều tụy, dứt hết lòng ham muốn. Nhờ đó hiểu sâu chính định Tam quán. Công khanh sĩ thứ ở kinh đô biết sư là bậc cao nhã, ai cũng ngưỡng mộ muốn được học. Sư nói:
- Có lợi tất có nhiễm, có nhiễm tất có lợi. Có nhiễm có lợi thì bậc Bồ Tát không làm, chỉ làm những điều gì không lợi không nhiễm.
Ngày 9 tháng giêng năm Canh Thân(1)niên hiệu Thiên Tư Gia Thụy thứ 5 (1190) sư lâm bệnh, gọi tăng chúng đến đọc bài kệ:
Sơn lâm hổ báo
Hoành văn ban bác
Nhược dục chân biệt
Tử thối mẫu trác
Dịch:
Rừng sâu báo hổ
Da vằn loang lổ
Nếu muốn phân rõ
Con kêu mẹ mổ(2)
Đọc kệ xong [sư qua đời](3)
*
* *
Thiền sư TỊNH KHÔNG
(1091-1170)
Chùa Khai Quốc, phủ Thiên Đức
Thiền sư vốn người Phúc Châu (Trung Quốc), họ Ngô. Lúc đầu sư xuất gia thụ giới cụ túc ở Viện Sùng Phúc thuộc bản châu. Năm ba mươi tuổi, sư hành cước về phương nam, rồi dừng lại trụ trì chùa Khai Quốc nước ta. Trong khoảng năm sáu năm sư tu hạnh Đầu đà, mỗi ngày chỉ ăn một nhúm hạt vừng hay hạt mạch, lưng không bén chiếu, chỉ ngồi thiền, mỗi lần nhập định suốt mấy ngày liền mới đứng dậy. Người bốn phương dâng phẩm vật cúng dàng chất đầy chùa. Có lần kẻ trộm đến rình ngoài cửa, sư bèn gọi vào chỉ cho mà lấy. Bấy giờ Nam Khang công chúa có ý muốn lìa tục, ngầm xin sư cho làm lễ xuống tóc xuất gia. Triều đình biết chuyện hạ chiếu bắt sư vào triều. Sư đến cửa khuyết nét mặt vẫn thản nhiên như không có chuyện gì. Vua thấy vậy tỏ ý kính trọng, phong là “Thạc đức danh tăng” (vị danh tăng có đức lớn). Sư có từ không nhận.
Một hôm sư lên nhà giảng, có vị tăng khách chống gậy đến hỏi:
- Thế nào là pháp thân?
Sư đáp:
- Pháp thân vốn không hình.
Khách lại hỏi:
- Thế nào là pháp nhãn?
Sư đáp:
- Pháp nhân vốn không bóng.
Sư lại nói:
- Trước mắt không có pháp. Ý ở trước mắt, còn pháp thì tai không nghe, mắt không nhìn thấy được.
Tăng khách ha hả cười vang. Sư hỏi:
- Khách cười cái gì?
Khách đáp:
- Hòa thượng là bậc xuất gia chưa hiểu tông chỉ, phải đến tham vấn Đạo Huệ mới xong.
Sư nói:
- Liệu có tìm được vị hòa thượng ấy không?
Khách đáp:
- Trên không mái che, dưới không dùi cắm.
Sư bèn cải dạng đi tham thỉnh thiền sư Đạo Huệ ở núi Tiên Du. Đạo Huệ nói:
- Tông chỉ ở đây chẳng phải là không có, nhưng Xà Lê(1)làm sao mà bảo nhậm được?
Sư còn nghĩ ngợi, Đạo Huệ quát lớn:
- Ngày trước mắt ngươi đã trượt qua rồi.
Sư liền lĩnh ngỗ yếu chỉ, rồi ở lại hầu hạ Đạo Huệ thiền sư. Sau ba năm sư đắc pháp trở về chùa cũ, nhận môn đồ để truyền thụ.
Một hôm sư gọi tăng chúng đến đọc bài kệ rằng:
Thượng vô phiến ngoã già
Hạ vô trác chùy địa
Hoặc dịch phục trực nghệ
Hoặc sách trượng nhi chi
Động chuyển xúc xứ gian
Tự long được thôn nhĩ.
Dịch:
Trên không viên ngói lợp
Dưới không đất cắm dùi
Người cải dạng đến học
Kẻ chống gậy vào chơi
Khi chuyển động tiếp xúc
Như rồng nhảy nuốt mồi
BĂNG THANH
(TVLT1)
Một thầy tăng hỏi:
- Lời dạy của hòa thượng nghĩa thế nào?
Sư đáp:
- Ngày ngày gặt lúa về
Quanh năm kho đụn rỗng.
(Nhật nhật khứ hoạch hòa
Thì thì không thương lẫm)
Tăng nói:
- Đệ tử chưa hiểu.
Sư nói:
-Sáng mãi trời trăng
Mây trôi tỏa bóng
(Nhật nguyệt trường minh
Phủ văn cái ấm)
Nói đoạn sư lại đọc bài kệ:
Trí nhân vô ngộ đạo
Ngộ đạo tức ngu nhân
Thân cước cao ngọa khách
Hề thức ngụy kiêm chân.
Dịch:
Kẻ trí không ngộ đạo
Ngộ đạo ấy ngu đần
Duổi chân nằm nghỉ khỏe
Chân ngụy chẳng chi cần!
Hỏi:
- Thế nào là Phật?
Đáp:
- Nhật nguyệt sáng soi ức triệu cõi
Ai hay mua móc gội non sông!
(Nhật nguyệt lệ thiên hàm ức sát(1)
Thùy tri văn vụ lạc sơn hà)
Hỏi: Làm thế nào hiểu được?
Đáp:
- Mục đồng quen ngủ trên lưng nghé
Đất có anh hùng cưỡi vượt qua
(Mục đông chi quán ngọa ngưu bối
Thổ hữu anh hùng khóa đắc y)
Hỏi:
- Ý Tổ và ý Phật giống nhau, khác nhau thế nào?
Đáp:
- Trèo non vượt biển muôn dặm đều hướng về cửa khuyết.
- Trí tuệ của hòa thượng thật đặc sắc kỳ lạ, sao không cho các đệ tử cùng biết?
- Người thổi lửa, ta làm gạo; ngươi xin ăn, ta lấy bát. Ai phụ bạc ngươi?
Thầy tăng ấy bèn tỉnh ngộ.
Ngày... tháng... năm Chính Long Bảo Ứng thứ 8 (1170, đời Lý Anh Tông), sư sắp thị tịch, gọi tăng chúng đến nói lời vĩnh quyết:
- Các người hãy giữ mình như khi ta còn sống, chớ nhiễm thế tục mà sinh ra đau buồn.
Nửa đêm hôm ấy, sư ngồi kiết già mà viên tịch, thọ hơn 80 tuổi.
(Lời đối đáp cơ duyên trong truyện này so với truyện hòa thượng Giáp Sơn trong sách Truyền đăng có phần nào giống nhau. Xét sách Liệt tổcủa Huệ Nhật thấy chép khách, nhưng không dám cái chính).
*
* *
Thiền sư ĐẠI XẢ
(1120-1180)
Chào Bác Đức, núi Vũ Ninh.
Thiền sư họ Hứa, người phường Đông Tác. Xuất gia từ lúc còn nhỏ, theo tu tập Thiền học với Đạo Huệ thiên sư ở Tiên Du, đã hiểu biết được đại khái. Sư thường xoã tóc quên ăn, không ở hẳn một nơi nào nhật định. Các bậc vương công tranh nhau thờ làm thầy, nhất là Kiến Ninh vương và Thiên Cực công chúa (1)đối với sư lại càng tôn kính. Sư từng dựng chùa ở gò Hồ Nham núi Tuyên Minh để giáo hóa, học trò đến theo học rất đông. Bấy giờ có thầy tăng người nước Tống là Nham Ông cảm mộ danh tiếng của sư, tìm đến thỉnh vấn, tự đốt một ngón tay đem dâng sư để tỏ lòng thành. Người ta nghi ngờ sư có yêu thuật. Trong niên hiệu Thiên cảm Chí Bảo (1174 – 1175) đời Lý Anh Tông, thai úy Đỗ Anh Vũ ra lệnh bắt sư đem về giam ở thành nội, quở trách nặng nề, nhưng sư không hề tỏ ý sợ hãi. Nhờ có Thiên cực công chúa xin với vua nên sư mới khỏi bị tội.
Một hôm vua Lý Anh Tông vời sư đến hỏi:
- Trẫm nhiều phiền cảm, có phép gì chữa khỏi không?
Sư nói:
- Phép thập nhị nhân duyên(1)là gốc rễ của vòng sinh tử tuần hoàn. Bệ hạ dùng phép ấy thì đó là thuốc chữa bệnh vây.
Vua hỏi tông chỉ của pháp ấy thế nào, sư đáp:
- Chỉ vì nhân duyên vô minh mà dẫn đến mọi buồn lo khổ não. Muốn cầu Bích Chi Phật(2)phải hiểu rõ thập nhị nhân duyên để giữ mình thì mới hết nghiệp căn khổ não.
Vua nói:
- Thế thì trẫm phải tĩnh tâm tu tập.
Sư nói:
- Phải cấm trừ nghiệp thức(3)giữ lòng yên tĩnh thì mới quét sạch phiền não. Ngoài ra không có phép riêng nào đáng phải tu tập. Ngày xưa Lương Vũ Đế từng hỏi Bảo Chí thiền sư, Bảo Chí cũng trả lời như thế. Nay bần đạo trộm phép nói tương tự để bệ hạ tham cứu.
Ngày 5 tháng 2 năm Trinh Phù thứ 5 (1180) sư dặn dò đệ tử xong, đọc kệ rằng:
Tứ xà đồng kiệp bản nguyên không
Ngũ uẩn cao sơn diệc bất tông
Chân tinh linh minh vô khuể ngại
Niết Bàn sinh từ nhậm già lung.
Dịch:
Tứ xà(1)cùng giỏ vốn nguyên không,
Ngũ uẩn(2)non cao chẳng tổ tông
Chân tính sáng thiêng không trở ngại
Niết Bàn sinh tử mặc giam lồng
MAI XUÂN HẢI
Lại đọc tiếp một bài kệ khác:
Thạch mã xỉ cuồng ninh
Thực miêu nhật nguyệt minh
Đồ trung nhân cộng quá
Mã thượng nhân bất hành.
Dịch:
Ngựa đá nhe răng cuồng
Ngày tháng kêu ăn mạ
Trên đường người cùng qua
Cưỡi ngựa, người không đi!
MINH CHI
Canh năm hôm ấy sư uống thuốc độc mà qua đời, thọ 61 tuổi.
*
* *
Thiền sư TINH LỰC
(1112-1175)
Am Việt vương trì, núi Tỉnh Cương, huyện Vũ Ninh.
Thiền sư người Cát Lăng, huyện Vũ Bình, họ Ngô, tên húy là Trạm. Từ thủa nhỏ thông minh, giỏi biện luận, có tài văn nghệ, nhất là viết chữ rất đẹp. Khi du học được gặp thiền sư Đạo huệ, ông bị cuốn hút, bèn dốc lòng nương nhờ đất Phật. Trải bao năm tháng sư ăn rau mặc lá, chuyên tâm tu trì phúc tuệ, đạo tâm ngày càng kiên vững. Đạo Huệ từng bảo sư:
- Tâm ấn của chư Phật đều có cả ở ngươi, không phải tìm ai khác.
Sư nói:
- Đội ơn thầy chỉ giáo, chẳng hay đệ tử nên tru phương nào?
Đạo Huệ đáp:
- Chẳng phải đi đâu xa, cứ về đất cũ Vũ Ninh cũng đủ.
Sư bèn đến núi Tỉnh Cương chụm lều tranh mà trụ, sáng sớm đến đêm khuya lễ Phật sám hối, chứng được phép niệm Phật tam muội(1), tiếng sư tung kinh niệm Phật sang sảng như âm thanh ở chốn Phan thiện.
Sư thường giảng kinh Viên Giác,thấy văn bản kinh sách có chỗ nghĩa lý bất thông thì cầm bút sửa lại, người đương thời thường nói vui là trong miệng sư có chất thư hoàng.
Ngày tháng... năm Thiên Cảm Chí Bảo thứ 2 (1175) sư lâm bệnh, gọi đệ tử đến dặn bảo:
- Các ngươi cần phải siêng lòng cúng dàng, không phải cầu Phật ở đâu khác. Phải trừ dệt hết ác nghiệt, miệng đọc tâm tụng, lấy đức tin mà giảng giải cho chúng sinh. Hãy giữ lòng yên tỉnh thanh không, thân gần kẻ thiện trí thức, lời nói hòa nhã, chẳng bao lâu trong tâm hết sợ hãi, hiểu thấu giáo lý, xa rời ngu mê, truyện không động. Tất cả mọi pháp vô thường, vô ngã, vô tác, vô vi, chỗ nào thấy chênh lệch xa rời phải biết phân biệt để hiểu rõ, như thế mới đáng là người học đạo chân chính. Duyên hóa độ của ta đến nay thế là xong.
Nói đoạn sư đọc bài kệ;
Tiên tuy ngôn cát hậu ngôn hung
Tự thị thừa(1)tiên húy bất tòng
Vi ngộ hiện long vi Phật tử
Hối tao thử xuất tịch vô cùng.
Dịch:
Trước tuy là cát, sau là hung
Giáo huấn người xưa tránh chẳng dùng
Vì thấy rồng lên làm Phật tử
Chợt trông chuột hiện lặng vô cùng.
Đọc kệ xong, sư nghiêm trang qua đời, thọ 64 tuổi.
*
* *
Thiền sư TRÍ BẢO
(? – 1190)
Chùa Thanh Tước, núi Du Hí, hương Cát Lị Hi,(1)quận Thường Lạc.
Sư người Ô Diên, quận Vĩnh Khang, họ Nguyễn, là cậu của thái úy Tô Hiến Thành đòi Lý Anh Tông. Sư bỏ tục, xuất gia tu hành ở chùa Thanh Tước, ăn gạo hút, mặc áo rách, dễ đến mười năm chỉ dùng một manh áo, cứ ba ngày mới nhóm lửa thổi cơm, chẳng bao lâu da dẻ sần mồi, nhan sắc hô héo. Khi ra đường thấy kẻ nghèo hèn thì khoanh tay tránh lối, gặp người tu hành thì quỳ mà lạy chào. Trong sáu năm, sư chuyên chú tu tập thiền định, sau khi thành đạo bèn chống gậy xuống núi. Từ đó sư đi phổ khuyến các nơi để lo việc sửa cầu, dựng chùa tháp, không nghĩ đến điều lợi.
Có vị tăng khách đến hỏi sư:
- Sinh từ đâu tới? Tử đi về đâu?
Sư còn nghĩ ngợi, tăng khách nói:
- Còn đang nghĩ ngợi
vạn dặm mây trôi
(Nghĩ nghị chi gian
Bạch Văn vạn lý)
Sư không đáp được. Tăng khách bèn quát:
- Chùa tốt mà không có Phật!
Tăng khách nói xong bỏ đi.
Sư than rằng: “ta tuy có lòng xuất gia mà chưa hiểu thấu tông chỉ cũng ví như người đào giếng sâu đến chín nhẫn mà không gặp nước, còn đợi gì mà không bỏ cái giếng ấy đi! Huống chi ta tu thân mà không ngộ đạo, biết tính thế nào”?
Từ đó sư đi vân du bốn phương tìm thấy học đạo. Nghe danh thiền sư Đạo Huệ ở Tiên Du, sư bèn tìm đến tham vấn. Sư lại nêu câu hỏi: “Sinh từ đâu tới, tử đi về đâu?”.
Đạo Huệ đáp:
- Sinh không từ đâu tới, tử chẳng về đâu.
Sư hỏi:
- Thế chẳng phải rơi thoát vào chỗ trống không ư?
Đạo Huệ đáp:
- Chân tính diệu viên, thể tự không tịch; vận dụng tự tại chẳng cùng với sinh tử. Cho nên nói sinh không từ đâu tới, tử chẳng về đâu.
Nghe câu nói ấy, sư bèn lĩnh ngộ, thưa rằng:
- Chẳng nhờ gió cuốn mây bay tạnh
Nào thấy trời thu vạn dặm xanh
(Bất nhân phong quyên phù vân tận
Tranh kiến thanh niên vạn lý thu)
Đạo Huệ nói:
- Người thấy cái gì?
Sư đáp:
- Quen biết khắp thiên hạ
Tri âm được mấy người?
(Tương thức mãn thiên hạ
Tri âm năng kỷ nhân)
Nói xong từ tạ trở về núi cũ. Từ đó, sư tự tin truyền giảng thuyết pháp, lời lẽ kích thiết như xiết đá đánh lửa.
Một hôm sư lên nhà giảng, tăng đồ và tu sĩ ngồi chật như nêm. Có người hỏi:
- Thế nào là “tri túc”?
Sư đáp:
- Phàm người xuất gia, tại gia phải dừng lại ở chỗ “tri túc”. Nếu biết “tri túc” thì ngoài không xâm phạm đến ai mà trong không tổn hại đến mình. Bé mọn như lá cỏ, nếu người ta không cho, mình cũng không nên lấy, huống gì là vật khác? Của cải của người, nếu ta mơ tưởng đến thì cuối cùng không chỉ dừng ở đó mà sẽ sinh lòng trộm cắp. Đến như vợ cả, vợ lẽ của người, nếu ta mơ tưởng thì cũng không dừng ở đó mà sẽ sinh lòng tà dâm. Các ngươi hãy nghe lời kệ của ta:
Bồ Tát tư tài tri chỉ túc
Ư tha từ thứ bất xâm dục
Thảo diệp bất dữ ngã bất thủ
Bất tưởng tha vật đức như ngọc
Bồ tát tự thê phương tri túc
Như hà tha thê khởi thàm dục
Ư tha thê thiếp tha sở hộ
An nhẫn tự tâm khởi tâm khúc.
Dịch:
Của dùng Bồ Tát biết vừa đủ
Đối ngươi thương xót chẳng lấn tham
Vật mọn không cho ta không lấy
Chẳng quản của người đức ngọc lành
Bồ tát vợ nhà còn biết đủ
Tại sao vợ người lai khởi tham?
Thê thiếp của người, người bảo hộ
Đâu nỡ lòng mình khởi vạy tà
THANH TỪ
(TSVN)
Ngày 14 tháng 4 năm Gia Thụy thứ 5 (1190) sư lâm bệnh rồi qua đời. Đệ tử làm lễ hóa táng, thu linh cốt, dựng tháp thờ ở sơn môn.
Thiền sư TRƯỜNG NGUYÊN
(1110 – 1165)
Chùa Sóc Thiên vương, núi Vệ Linh, (1)Bình Lỗ.
Thiền sư người hương Trường Nguyên, huyện Tiên du, họ Phạm, vốn thuộc giống người Bối. Lúc mới xuất gia được thiền sư Đạo Huệ ở chùa Quang Minh truyền tâm ấn. Sâu vào núi Vệ Linh ẩn tích, ăn rau rừng, hạt dẻ, làm bạn với suối, khe, khỉ, vượn, suốt ngày dồi luyện thâm tâm cho đạt được sự hồn thuần để tụng kinh niệm Phật. Trong khoảng năm, sáu năm sư lặng lẽ tu trì nên không ai hay biết. Nhưng cuối cùng rồi danh tiếng của sư cũng lan truyền đến kinh đô. Vua Lý Anh Tông lấy làm hâm mộ, muốn triệu kiến mà không chịu đến. Vua bèn sai bạn cũ của sư là phiên thần Lê Hối đến khuyên mời. Sự nhận lời cùng đi nhưng khi đến chùa Quán Hương lại lấy làm hối, bèn trốn về, nói với học trò:
- Ta đã thân khô lòng nguội, đối với thế tục, phù phiếm hư ngụy có đáng là gì? Có lẽ là do chí hạnh của ta chưa thuần nên còn bị cái lòng lợi danh làm khốn!. Các ngươi hãy nghe lời kệ của ta:
Viên hầu bảo từ qui thanh chướng
Tự cổ thánh hiền một khả lượng
Xuân lai oanh chuyển bách hoa thăm
Thu chi cúc khai một mô dạng.
Dịch:
Khỉ vượn bồng con náu núi ngàn
Từ xưa hiền thánh mấy ai tường?
Xuân sang hoa thắm oanh ca rộn
Thu tới còn riêng cúc nở vàng.
MAI XUÂN HẢI
Sư lại từng nói với môn đồ:
- Lạ thay! Lạ thay! Tại sao lại nói các chúng sinh đều có trí tuệ của Như Lai mà vẫn ngụ si mê hoặc, không thấy, không biết. Ta thường đem đạo lý giáo hóa khiến cho họ lìa bỏ vông tướng chấp trước để tự mình thấy được trí tuệ rộng lớn của Như Lai, được lợi ích an lạc.
Ngày 7 tháng sáu năm Chính Long Bảo ứng thứ 3 (1165), sư se mình, gọi đệ tử đến đọc lời kệ:
Tại quang tại trần
Thường ly quang trần
Tầm phủ trừng triệt
Dữ vật vô hận
Thể ư tự nhiên
Ứng vậy vô ngân
Tồng tương nhị nghi
Đào thải nhân luân
Đình độc vạn vật
Dữ vật vi xuân
Tác vũ thiết nữ
Đả cố mộc nhân.
Dịch:
Ở nơi bóng trần
Thường lìa bóng trần
Lòng dạ trắng trong
Cùng vật không thân
Tài bằng trời đất
Vượt cá nhân luân
Dưỡng muôi muôn vật
Cùng vật vui xuân
Gái sắt đứng múa
Người gỗ đánh trống
THẠCH TỪ
(TSVN)
Đọc kệ xong sư quy tịch, thọ 56 tuổi
*
* *
Thiền sư TỊNH GIỚI
(? – 1207)
Chùa Quốc Thanh, núi Bí Linh, phủ Nghệ An (có thuyết nói chùa Quốc Thanh ở Phủ Trường An)
Thiền sư quê ở hương Giang Mãn, đất Lô Hải Ngung(1)họ Chu, húy là Hải Ngung, xuất thân nhà nghèo, tính tình trung thực thuần hậu. Thuở nhỏ ông theo Nho học. Năm hai mươi sáu tuổi bị ốm, chiêm bao thấy người trời xuống cho thuốc, tỉnh dậy thì khỏi bệnh. Từ đó quyết chí xuất gia, tìm các bậc túc thiền trong bản hương để tu tập giới luật. Nghe nói Lăng Sơn là nơi u tịch, có thể đến tìm thầy học đạo. Sư bèn chống gậy đi về phía đông. Trong khoảng bẩy năm theo hầu thiền sư Báo Giác ở chùa Viên Minh, chỉ nhờ một câu nói của sư mà lĩnh ngộ tông chỉ.
Ngày tháng mười năm Quý Tỵ niên hiệu Chính Long Báo ứng (1173) tước khi thị tịch, sư Báo Giác bảo Tịnh Giới:
- Sinh, lão, bệnh, tử là lẽ thường của thế gian, há riêng mình ta được miễn thông lệ ấy hay sao?
Sư hỏi:
- Hôm nay hòa thượng thấy trong người thế nào?
Bảo Giác cười rồi đọc bài kệ:
Vạn pháp quy không vô sở y
Quy tịch chân như mục tiền ky (cơ)
Đạt ngộ tâm viên vô sở chỉ
Thủy thủy tâm nguyệt dẫn tâm nghi(1)
Dịch:
Muôn pháp về không, không thể nương
Chân như lặng lẽ hiện chán chường
Thấu tột nguồn tâm không chỗ chỉ
Nước tâm bóng nguyệt bặt nghĩ lường.
THANH TỪ
(TSVN)
Báo Giác đọc kệ xong trao pháp cụ cho Tịnh Giới rồi quy tịch.
Từ đó Tịnh Giới đi du phương hành hóa, sau dừng lại ở chùa Quốc Thanh. Tại đây sư tu Đầu đà khổ hạnh trong khoảng sáu năm không xuống núi. Sư có phép lạ hàng long phục hổ, cảm hóa thần thông. Châu mục Phạm Từ hâm mộ danh đức đem hậu lễ thỉnh sư cho đúc chuông đồng kính tiến để nhà chùa treo trấn giữ sơn môn.
Mùa hè năm Trinh Phù thứ 2 (1177) gặp đại hạn, vua Lý Cao Tông xuống chiếu cho các danh tăng làm lễ cầu đảo đều không ứng nghiệm. Vua từ lâu đã nghe danh tiếng của sư, bèn sai sứ thỉnh sư về kinh. Sư nghỉ ở chùa Báo Thiên đến nửa đêm thắp hương đứng giữa sân chùa tụng niệm cầu khấn, trời bèn đổ mưa. Vua hết lời khen ngợi sùng ái, thường gọi là Vũ sư (vị sư giỏi thuật cầu mưa). Nhân dịp đó vua triệu sư vào ở gần điện riêng để tiện hỏi về Phật pháp, ban thưởng rất trọng hậu.
(Tục truyền: sư xuất gia khi còn tuổi đinh tráng, ở nhà còn thiếu thuế. Chị gái là Chu Thị Hằng năm vẫn phải nộp thay. Sư nhớ việc đó nhưng không biết làm thế nào để xin miễn được. Khi nghe tin triều đình xuống chiếu cầu mưa, sư bèn lén về nhà báo chị cho đào một cái ao sau vườn. Đêm đến sư thắp hương tụng niệm cầu đảo, một lát sau trời mưa nước đầy ao. Quan địa phương kinh lạ tâu về triều. Vua cả mừng sai sứ thỉnh sư về kinh. Sư nghỉ ở chùa Báo Thiên, đêm hôm sau thắp hương cầu đảo, quả nhiên được mưa to. Nhờ việc ấy sư được độ làm tăng(1), lại miễn tô thuế cho cả họ (trong năm ấy).
Năm Trinh Phù thứ tư (1179) chùa Chân Giáo ở núi Vạn Bảo làm xong, vua triệu các bậc danh tăng có đức vọng về dự hội khánh thành. Sư ứng chiếu đến cửa khuyết, nghỉ ở gác Lâm Tê. Bấy giờ trời mưa dâm, đường sá lầy lội phương hại đến viện mở hội chùa. Sư lập đàn cầu tạnh, mưa liền ngớt. Xong hội chùa bẩy ngày trời lại mưa như cũ.
Sau sư trở về bản hương lo liệu trung tu chùa Quảng Thánh. Trong lúc đi các nơi quyên mộ để đúc chuông làm trống, có khi trời kéo mấy đen sắp mưa, sư đứng giữa sân giơ gậy trừng mắt nhìn lên, chỉ trong chốc lát mây tan; mặt trời lại xuất hiện. Về sau qua nhiều lần binh hoả mà quả chuông do sư đúc ở chùa Quảng Thánh đến nay vẫn còn. Sau sư trở về chùa Quốc Thanh giảng hóa cho môn đồ. Có vị tăng hỏi về Phật lý, sư đáp:
- Ta với ngươi!
Sư lại nói:
- Tính của tâm tức là Như Lai tạng(1). Cho nên đạt được tâm tự tính thì thanh tịnh.
Ngày bẩy tháng bẩy năm Trị Bình Long ứng thứ 3 (1207) trước khi thị tịch, sư đọc bài kệ:
Thử thì thuyết đạo hãn tri âm
Chỉ vì như tư đạo táng tâm
Hề tự Tử Kỳ ta sảng sẩm
Thỉnh lai nhất đại Bá Nha cầm.
Dịch:
Thời này bàn Đạo ít tri âm
Vì đạo ngày nay đã mất tâm
Ai giống Tử Kỳ nghe nhạc giỏi
Bá Nha đàn thoảng, hiểu tinh thâm.
HOÀNG TRUNG THÔNG
(TVLT1)
Lại đọc thêm một bài nữa:
Thu lai lương khí sảng hung khâm
Bát đấu tài cao đổi nguyệt ngâm
Kham tiếu thiền gia si độn khách
Vi hà tương ngữ dĩ truyền tâm.
Dịch:
Êm dịu hơi thu mát cõi lòng
Tài thơ ngâm chọi bóng trăng trong
Cửu thiền những thẹn người si độn
Để lại câu gì, nghĩ chửa thông.
NGÔ TẤT TỐ
(VHĐL)
Nói xong sư ngồi kiết già mà tịch:
(Nguyên chú:truyện này có chỗ hơi khác với quốc sử và văn bia, nay khảo cứu lại.)
*
* *
Thiền sư GIÁC HẢI
Chùa Diên Phúc, hương Hải Thanh.
Thiên sư họ Nguyễn, người hương Hải Thanh, từ nhỏ làm nghề đánh cá, thường lấy thuyền làm nhà, lênh đênh trên sông biển. Năm 25 tuổi bỏ nghề cũ, cắt tóc đi tu. Lúc đầu sư cùng với Không Lộ theo học đạo với Hà Trạch(1). Sau sư nối pháp tự của Không Lộ. Thời Lý Nhân Tông, sư và Thông Huyền chân nhân có lần được vời vào hoàng cung ngồi hầu vua trên bệ đã mát ở hiên điện chính, chợt có đôi cắc kè đậu gần đó kêu vang lên rất chối tai. Vua bảo Thông Huyền xua đi. Thông Huyền lặng lẽ niệm chú, một con liền rơi xuống. Thông Huyền cười bảo sư:
- Còn một con nữa xin nhường hòa thượng! Giác Hải bèn chú mục nhìn, chỉ nháy mắt con cắc kè kia cũng rơi nốt. Vua lấy làm lạ, làm thơ khen ngợi như sau:
Giác Hải tâm như hải
Thông Huyền đạo hựu huyền
Thần thông kiêm biến hóa
Nhất Phật, nhất Thần tiên
Dịch:
Giác Hải lòng như biển
Thông Huyền đạo rất huyền
Thần thông kiêm biến hóa
Một Phật, một Thần tiên.
PHẠM TRỌNG ĐIỀM(1)
Do chuyện đó tên tuổi Giác Hải đồn vang khắp thiên hạ, cả tăng, tục đều kính mộ. Vua Lý Nhân Tông lấy lễ tiếp đãi như thầy. Mỗi khi xa giá về hành cung ở Hài Thanh, vua thường đến chùa Diên Phúc trước. Vua hỏi Giác Hải:
- Sư có thể cho nghe về phép thần túc không?(2)
Sư bèn làm tám phép thần biến, rồi tung người nhảy lên không cao đến mấy trượng, trong chốc lát lại nhảy xuống chỗ cũ. Vua và các quan đều vỗ tay khen ngợi. Vua ban cho một chỗ kiệu, mỗi khi về kinh được phép vào hoàng thành.
Đến đời Lý Nhân Tông, vua nhiều lần triệu mời, nhưng sư đều lấy cớ già yếu từ chối không về kinh.
Có vị tăng hỏi:
- Phật và chúng sinh thì ai là khách, ai là chủ?
Sư đọc bài kê mà đáp:
Liễu dụng(3)nữ đầu bạch
Báo nhĩ tác giả thức
Nhược vẫn Phật cảnh giới
Long môn tao điểm ngạch(1).
Dịch:
Biết dùng gái đầu bạc
Bảo ông người khéo biết
Nếu hỏi cảnh giới Phật
Cửa rồng gặp điểm trán
Khi sư lâm bệnh, gọi đệ tử đến đọc kệ rằng:
Xuân lai hoa điệp thiện tri thì
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì.
Dịch:
Xuân sang hoa bướm khéo quen thì
Bướm lượn hoa cười vẫn đúng kỳ
Nên biết bướm hoa đều huyền ảo
Thây hoa mặc bướm, để lòng chi
NGÔ TẤT TỐ
(VHĐL)
Đêm ấy có ngôi sao lớn rơi xuống phía đông nam nhà phương trượng. Sư ngồi nói chuyện đến sáng rồi trang nghiêm qua đời. Vua xuống chiếu miễn thuế cho ba mươi hộ để đèn hương thờ phụng, cho hai người con trai(2)ra làm quan để tỏ ý biểu dương khen thưởng.
Thiền sư NGUYỆN HỌC
(? 1181)
Chùa Quảng Báo, hương Chân Hộ, quận Như Nguyệt.
Thiền sư họ Nguyễn, người hương Phù Cầm, thuở nhỏ thụ pháp với thiền sư vẫn trì ở chùa Mật Nghiêm, lĩnh hội được yếu chỉ. Rồi sư đến ẩn cư ở núi Vệ Linh, chuyên chú tu tập phạn hạnh.
Ròng rã mười hai năm trời, mỗi lần tọa thiền nhập định ngồi liền ba ngày mới đứng dậy. Sư thường trì tụng bài chú Hương Hải đại bi Đà La Ni, cầu mưa, trị bệnh luôn ứng nghiệm. Vua Lý Anh Tông cảm phục sư có phép thần thông linh nghiệm, ban chiếu chỉ cho sư được phép ra vào cung cấm để tiện việc cầu cúng, chữa bệnh.
Sau sư cáo lão trở về chùa trụ trì. Môn đồ xin thụ pháp đến hơn trăm người.
Ngày 11 tháng sáu năm Thiên Cảm Chí Bảo thứ 8 (1181) trước khi thị tịch, sư bảo tăng chúng rằng:
Đạo vô ảnh tượng
Xúc mục phi dao
Tự phản suy cầu
Mạc cầu tha đắc
Túng nhiêu cầu đắc
Đắc tức bất chân:
Thiết sử đắc chân
Chân thị hà vật?
Dịch:
Đạo không hình ảnh
Trước mắt chẳng xa
Xoay lại tìm ta
Chớ tìm đâu khác
Dẫu có tìm được
Được chẳng phải chân
Dù có được “chân”
“Chân” là gì vậy?
Cho nên các Phật Tam thế, Tổ các đời truyền thụ tâm ấn đều như thuyết ấy. Các ngươi hãy nghe lời kệ của ta.
Liễu ngộ thân tâm khai tuệ nhãn
Biến hóa linh thông hiện th ực tướng
Hành trụ, tọa, ngọa, độc trác nhiên
Ứng hiện hóa thân bất khả lượng
Tuy nhiên sung tắc biến hư không
Quan lai bất kiến như hữu tướng
Thế gian vô vật khả tỷ huống.
Trường hiện linh quang minh lãng lãng
Thường thời diễn thuyết bất tư nghi
Vô đắc nhất ngôn dĩ vi đương
Dịch:
Giác ngộ thân tâm bừng tuệ nhãn
Linh thông biến hóa hiện thực tướng
Đi đứng nằm ngồi mặc an nhiên
Ứng hiện hóa thân không thể lượng
Tuy rằng đầy ắp khắp hư không
Xem ra chẳng thấy như hình tướng
Thế gian chẳng vật nào sáng ngang
Linh quang mãi mãi vẫn ngời sáng
Thường thì nói ra chẳng nghi ngờ
Nhưng chẳng lời nào cho thỏa đáng
MAI XUÂN HẢI
Một bản dịch khác:
Rõ hiểu thân, tâm mắt tuệ mở
Biến hóa linh thông, bày thực tướng
Đi đứng nằm ngồi, riêng siêu việt
Ứng hiện hóa thân không thể lường
Tuy hiện khắp đầy rẫy như không
Xem ra nào thấy có tướng gì
Thế gian không có gì sánh được
Thường hiện ánh thiêng sáng sáng ngời
Luôn luôn thuyết pháp bất tư nghì
Không một lời nào xem thỏa đáng
M.C.
Nói xong sư ngồi kiết già mà qua đời.
(Nguyên chú:Truyện này, giữa bản lưu truyền lâu nay và truyện Huệ Tứ trong sách Truyền đăng hơi giống nhau. Nay theo như sách Liệt tổ yếu ngữcủa Huệ Nhật đã chép)
*
* *
Thế hệ thứ mười một
9 người, chép thiếu 8 người
Thiền sư QUẢNG NGHIÊM
(1122-1190)
Chùa Tịnh Quả, hương Trung Thụy, huyện Trương Canh.
Thiền sư họ Nguyễn, người Đan Phượng, từ nhỏ mồ côi cha, theo hầu cậu là Bảo Nhạc, được khai tâm học đạo. Sau khi cậu mất ông đi hành cước khắp nơi để tham vấn thiền học. Nghe tiếng sư Thiền Trí(1)thuyết pháp giảng hóa ở chùa Phúc Thánh, hương Điển Lãnh, sư tìm đến xin làm đệ tử. Một hôm nghe Thiền Trí giảng Tuyết Đậu ngữ lục,đến đoạn hai thầy Đạo Ngô và Tiên Nguyên đến nhà người điếu tang, đối đáp về vấn đề sinh tử, sư dương như có điều sở đắc, bèn hỏi:
- Thoại đầu này người xưa nói về cái lẽ ở trong sinh tử, không biết có còn hợp lý nữa hay không?
Thiền Trí hỏi lại:
- Người có hiểu được cái lý ấy không?
Sư hỏi:
- Thế nào là lý không sinh tử?
Thiền Trí đáp:
- Chỉ ở trong sinh tử mới biết được!
Sư đáp:
- Phải đạt được vô sinh đã!
Thiền Trí nói:
- Vậy là ngươi liễu ngộ rồi.
Sư bừng hiểu, hỏi:
- Lấy gì bảo nhậm?
Thiền Tri nói:
- Hiểu rồi lại vẫn giống như chưa hiểu!
Sư bèn sụp xuống lạy tạ. Từ đó danh tiếng của sư lan truyền trong chốn Thiền lâm. Rồi đó, sư đến trụ trì ở chùa Thánh Ân hương Siêu Loại. Sau thượng thư bộ binh là Phùng Giáng Tường hâm mộ danh tiếng của sư, mời về truyền giảng tông chỉ ở chùa Tịnh Quả, tăng lữ gần xa đến theo học đều được tiến ích.
Một hôm, đệ tử thân cận là Thường Chiếu đưa kinh Kim Cương đến hỏi sư:
- Nói Như Lai đắc pháp thì cái pháp ấy vốn không thực không hư, vậy đó là pháp gì?
Sư đáp:
- Người đừng bài báng Như Lai mới được!
Thường Chiếu nói:
- Hòa thượng cũng không nên bài báng lời trong kinh.
Sư hỏi:
- Kinh ấy do ai nói?
Thường Chiếu nói:
- Xin hòa thượng đừng nhạo đệ tử nữa. Há chẳng phải đó là lời của Phật hay sao?
Sư đáp:
- Nếu là lời Phật nói thì tại sao Kinh lại có câu: “Nừu nói Như Lai có thuyết pháp điều gì thế tức là bài báng Phật”?
Thường Chiếu không trả lời được.
Lại một vị tăng hỏi:
- Thế nào là Pháp thân?
Sư đáp:
- Pháp thân vốn không tướng.
Tăng hỏi lại:
- Thế nào là Bát Nhã?
Sư đáp:
- Bát Nhã vốn không hình.
Hỏi:
- Thế nào la cõi Tịnh quả?
Đáp:
- Như ngôi mộ cổ dưới cây thông, cây bàng.
- Thế nào là người trong cõi?
- Một mình ngồi trong cái bình bịt miệng!
- Chợt gặp kẻ tri âm thì tiếp thế nào?
- Cứ thoải mái mà rướn đôi mày!
Vị tăng ấy lại hỏi:
- Lớp con cháu của Âu công ở chùa Kiến Sơ thì thế nào?(1)
Đáp:
- Kẻ ngu nước Sở!
Vị tăng im lặng không hỏi nữa.
Ngày 15 tháng 2 năm Canh tuất niên hiệu Thiên Tư Gia Thụy thứ 5 (1190), sư lâm bệnh, gọi đệ tử đến đọc bài kệ rằng:
Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ
Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh
Nam nhi tự hữu xung thiên chi
Hưu hưởng Như Lai hành xứ hành.
Dịch:
Thoát tịch diệt xong, bàn tịch diệt
Sau vô sinh, hãy nói vô sinh
Làm trai lập chí xông trời thẳm
Theo gót Như Lai luống nhọc mình.
NGUYỄN ĐỨC VÂN - ĐÀO PHƯƠNG BÌNH
(TVLT1)
Đọc xong sư chắp tay thanh thản mà qua đời,
thọ 69 tuổi. Thượng thư Phùng Giáng Tường làm lễ hỏa thiêu, xây tháp phụng thờ.
*
* *
Thế hệ thứ mười hai
7 người, chép thiếu 6 người
Thiền sư THƯỜNG CHIẾU
(? – 1203)
Chùa Lục Tổ(1)hương Dịch Bảng, phủ Thiên Đức.
Thiền sư họ Phạm, người hương Phù Ninh, giữ chức Quảng từ cung lệnh đô tào triều Lý Cao Tông. Sau từ quan, xuất ra học đạo với sư Quảng Nghiêm ở chùa Tịnh Quả được sư đích thân truyền thụ pháp chỉ. Sư theo hầu Quảng Nghiêm mấy năm rồi đến trụ trì thuyết pháp tại chùa cổ ở phường Ông Mạc, sau mới về chùa Lục Tổ. Môn đồ đến theo học ngày càng đông. Có vị tăng hỏi:
- Khi ta và vật vin nhau thì thế nào?
Sư đáp:
- Vật ngã lưỡng vong
Tầm tính vô thường
Dị sinh dị diệt
Sát na bất đình
Thùy thị phan duyên
Sinh vi vật sinh
Diệt vi vật diệt
Bỉ pháp sở đắc
Thường vô sinh diệt
Dịch:
Ta vật quên hết
Tâm tính không thường
Dễ sinh dễ diệt
Chớp mắt chằng dừng
Ai vin mà biết?
Sinh là vật sinh
Diệt là vật diệt
Pháp kia sở đắc
Thường không sinh diệt
Tăng nói:
- Đệ tử chưa hiểu, xin thầy chỉ giáo lại cho.
Sư đáp:
- Hiểu thế nào là Tâm mà tu đạo chỉ dụng sức ít mà dễ thành. Không hiểu Tâm mà tu đạo thì phí công vô ích.
Hỏi:
- Thế nào là pháp thân tràn khắp mọi nơi?
Sư đáp:
- Như một lỗ chân lông mà biểu hiện đủ pháp giới thì tất cả lỗ chân lông đều như thế. Nên biết nếu Tâm không thì không một kẽ hở nào không phải là thân Phật. Vì sao vậy? Vì pháp thân ứng hóa thành Phật, không chỗ nào không đến. Phải biết đúng như thế. Như Lai dùng sức Tâm tự tại, trong chỗ không khởi không chuyển mà chuyển pháp luân(1); biết tất cả mọi pháp thường không khởi cho nên dùng ba thứ pháp(2), nói là đoạn nhưng không phải là đoạn mà chuyển pháp luân; biết tất cả mọi pháp đều chấp một bên, cho nên chỉ ở chỗ lìa dục nhưng không trừ dục mà chuyển pháp luân; đi vào chỗ hư không còn tất cả mọi pháp, cho nên không ngôn thuyết mà chuyển pháp luân; biết tất cả mọi pháp đều không thể nói rằng lời, cho nên dùng cứu cánh là sự im lặng mà chuyển pháp luân; biết tất cả mọi pháp đều có tính Niết Bàn cho nên nói: tính không tướng, tính không tận, tính không sinh, tính không diệt, tính không phải là ta mà cũng chẳng phải là không ta, tính không phải là chúng sinh mà cũng chẳng phải không là chúng sinh, tính không phải là Bồ Tát, tính không phải là pháp giới, tính không phải là hư không, mà cũng không phải là tính của bậc chính giác (Phật)
Nói xong sư đọc bài kệ:
Tại thế vi nhân thân
Tâm vi Như Lai tạng
Chiếu diệu thả vô phương
Tâm chi cánh nguyệt khoáng.
Dịch:
Ở thế là nhân thân
Tâm là Như Lai tạng
Chiếu dọi khắp muôn phương
Nếu tìm không thấy bóng
Ngày 24 tháng chín năm Thiên Gia Bảo Hựu thứ 2 (1203) sư bảo là đau tim, gọi tăng chúng đến đọc kệ:
Đạo bản vô nhan sắc
Tần tiên nhật nhật khoa
Đại thiên sa giới ngoại
Hà xứ bất vi gia.
Dịch:
Đạo vốn không màu sắc
Ngày ngày lại mới tươi
Ngoài đại thiên sa giới
Đâu chẳng phải nhà ngươi
Nói xong sư ngồi kiết già mà tịch. Đệ tử là bọn Thần Nghi làm lễ hỏa táng, thu xá lị xây tháp phụng thờ.
Sư từng làm sách Nam tông tụ pháp đồmột quyển, lưu hành ở đời(1)
*
* *
Thế hệ thứ mười ba
5 người, chép thiếu 3 người
Cư sĩ THÔNG SƯ
(? – 1228)
Sư người Ốc hương huyện An La, họ Đặng. Lúc đầu sư cùng Quách Thần Nghi ở chùa Thắng Quang theo học đạo thiền sư Thường Chiếu ở chùa Lục Tổ. Một hôm vào phòng hỏi thầy:
- Làm thế nào hiểu rõ Phật pháp?
Thường Chiếu đáp:
- Phật pháp không thể biết rõ, hiểu điều này thì sẽ không cần hiểu pháp. Các Phật đều tu hành như không có pháp gì để biết rõ được. Chư Phật đều như thế. Tu tất cả pháp đều bất khả đắc.
Sư lĩnh ngộ yếu chỉ, trở về bản hương truyền giảng giáo pháp, học trò đến theo học rất đông. Những người đến tham vấn đều được sư truyền thụ tâm ấn. Có người hỏi:
- Thế nào là người xuất thế?
Sư đáp:
- Ngươi không nghe người xưa nói hay sao? “Ngũ uẩn” đều không tứ đại vô ngã, chân tâm không tướng(1), không đến không đi; khi sinh tính không đến, khi chết tính chẳng đi; yên tĩnh viên tịch, tâm cảnh vẫn như một. Phải hiểu được như vậy mới chóng đốn ngộ, không bị ba đời ràng buộc. Như thế là người xuất thế, tất thảy các điều ấy không thể tách rời nhau.
Lại hỏi:
- Thế nào là nghĩa “vô sinh”?
Sư đáp:
- Cần phải hiểu tính của các uẩn đều không tịch. Vì hư không nên không thể diệt. Đó là nghĩa “vô sinh”.
Hỏi:
- Thế nào là lý vô sinh?
Đáp:
- Phải điều tiết được ngũ uẩn mới làm lộ rõ được tính không của nó. Tính không thì không thể diệt. Đó là lý vô sinh.
Lại có vị tăng hỏi:
- Thế nào là Phật?
Đáp:
- Tâm vốn là Phật, cho nên Tam tạng Huyền Trang đời Đường nói: “Chỉ liễu ngộ đất lòng cho nên gọi tổng trì, ngộ pháp vô sinh gọi là Diệu giác.
Sau sư qua đời ngày tháng 7 năm Mởu Tí niên hiệu Kiến Trung thứ 4 (1228) đời Hoàng Triều (Trần).
*
* *
Thiền sư THẦN NGHI
(?-1216)
Chùa Thắng quang, hương Thị Trung, Kim Bài.
Thiền sư người đất ngoại trại, họ Quách, gia đình mấy đời tu hành thanh tịnh. Lúc đầu sư xuất gia học đạo với thiền sư Thường Chiếu ở chùa Lục Tổ. Khi Thường Chiếu sắp thị tịch, sư hỏi:
- Tại sao người khi thời tiết đến(1)đều chết như thế tục cả?
Thương chiếu hỏi lại:
- Ngươi nhớ được mấy người không theo thế tục?
Sư đáp:
- Chỉ mình tổ Đạt Ma thôi
Thường chiếu hỏi:
- Có gì kỳ lạ?
Sư đáp:
- Một mình bay lượt trở về trời Tây.
Thường Chiếu hỏi:
- Núi Hùng Nhỉ là nhà ai?
Sư đáp:
- Chỉ là chỗ chôn quan tài đựng chiếc giày mà thôi!
Thường Chiếu nói:
- Nói dối người để vụ lợi ắt là Thần Nghi!
Sư đáp:
- Chẳng phải là Tống Văn nói dối, còn việc Trang Đế cho phát quật quan tài nữa thì sao?
Thường Chiếu Quát:
- Toàn chuyện chó sủa suông cả!
Sư hỏi:
- Hòa thượng cũng theo thế tục chăng?
Thường Chiếu đáp:
- Theo tục.
Sư hỏi:
- Sao lại thế?
Thường chiếu nói:
- Để hòa đồng với mọi người.
Sư bỗng tỉnh ngộ, sụp xuống lạy tạ, nói:
- Trước đây đệ tử hiểu lầm cả rồi.
Thường Chiếu bèn quát lên một tiếng. Sư lại hỏi:
- Đệ tử theo hầu hòa thượng đã bao năm nay mà chưa biết ai là người đầu tiên truyền đạo vào nước ta? Xin hòa thượng chỉ giáo cho đệ tử được biết thế thứ các đời truyền pháp, ngõ hầu cho người học đạo ngày nay được biết nguồn gốc.
Thường Chiếu khen sư có lòng khẩn thiết, bèn lấy tập sách Chiếu đối bản(1)của sư Thông Biện và những điều ghi chép về các tông phái để phân biệt thế thứ nối pháp của các dòng (1)đưa cho xem. Sư xem xong hỏi thêm:
- Hai phái Nguyễn Đại Điên, Nguyễn Bát Nhã sao không thấy chép trong tập này?
Thường Chiếu đáp:
- Chắc là Thông Biện có ý gì đó.
Ngày 18 tháng 2 năm Bính Tí niên hiệu Kiến Gia thứ 6 (1216) sư đem tập phả đồ của Thường Chiếu trao cho mình truyền lại cho đệ tử là Ẩn Không, dặn rằng:
- Bây giờ tuy loạn, ngươi hãy giữ sách này, cẩn thận không để binh hỏa hủy hoại thì tổ phong ta sẽ không mai một.
Nói xong sư qua đời.
(Nguyên chú:Ẩn Không trước ở huyện Na Ngạn(2), Lạng Châu người đương thời gọi là Na Ngạn đại sư)
*
* *
Thế hệ thứ mười bốn
5 người, chép thiếu 3 người
Thiền sư TỨC LỰ
Chùa Thông Thánh, huyện Chu Minh,phú Thiên Đức.
Thiền sư còn có tên là Tịnh Lự, người hương Chu Minh, thuở nhỏ thông minh, theo nghiệp Nho đã học đủ các sách kinh điển. Sau đó Nho theo học Phật giáo với Thông Thiền cư sĩ, tham vấn học hỏi những lẽ huyền vi. Một hôm vào ngày giải hạ(1)sư bủa lưới bắt được con cá trê, đem đến biếu thầy. Thông Thiền kinh sợ nói:
- Ngươi đã xuất gia mà còn phạm sát, làm sao khỏi bị quả báo ngày sau?
Sư đáp:
- Lúc ấy đệ tử không thấy có vật này, mà cũng không thấy có bản thân mình, cũng chẳng biết quả báo sát sinh, cho nên mới làm như thế.
Thông Thiền biết sư là một pháp khí (2)bèn cho vào phòng mặt truyền tâm ấn rằng:
- Nếu ngươi dùng được đất lòng ấy thì dù có phạm vào năm điều tội ác, bấy điều phải xấu hổ(1)thì cũng vẫn thành Phật.
Lúc ấy có thầy tăng đứng bên cạnh nghe trộm được, bèn kêu lên:
- Khổ quá. Nếu như có việc ấy thì tôi cũng không tin như thế!
Thông thiền bèn nghiêm giọng quát:
- Giặc! Giặc! Là phi nhân sao dám trộm nghe?
Nghe câu nói ấy, sư bèn lĩnh ngộ. Sau sư về chùa Thông Thánh nghiên cứu yếu chỉ Thiền tông để truyền dạy cho học trò. Ứng Thuận cư sĩ là ngời nổi pháp tự của sư.
*
* *
Thiền sư HIỆN QUANG
(? -1221)
Núi Yên Tử(1)
Thiền sư người kinh đô Thăng Long, Họ Lê, húy là Thuần, dáng mạo thanh tú, giọng nói êm nhẹ. Sư sống tự lập từ thuở nhỏ, từng trải qua nhiều khốn khó. Năm mười một tuổi, được thiền sư Thường Chiếu ở chùa Lục Tổ nhận nuôi làm đệ tử. Sau học tập thông minh tấn tới, mỗi ngày tụng đọc cả vạn câu. Chưa đầy mười năm thông giỏi cả tam giáo, nhưng chưa kịp suy cứu yếu chỉ Thiền tông thi Thường Chiếu đã quy tịch. Về sau, khi biện luận những điều tâm yếu thường bị người khác bắt bẻ, sư hối tiếc tự trách: “Ta nay cũng ví như đứa con nhà giầu, khi cha mẹ còn sống thì kiêu lười vô độ, sau khi cha mẹ chết thì cô độc mê muội, không biết của quý trong nhà cất giữ ở đâu, rốt cuộc trở thành nghèo khó”. Sư bèn đi vân du khắp chốn tùng lâm tìm thấy học đạo, sau gặp thiền sư Trí Thông(2)ở chùa Thánh Quả, được nghe một lời nói mà đất lòng đột nhiên bừng sáng, bèn thờ Trí Thông làm thầy. Sư từng nhận lễ cúng dàng của công chúa Hoa Dương. Bấy giờ những lời hủy báng đạo Phật dấy lên như ong, sư nghe biết, tự nghĩ rằng: “Phàm có quan hệ với những người được thế tục ngưỡng mộ tất không tránh khỏi bị điêu tiếng chê bai. Lẽ nào ta cũng phải chịu như thế? Vả lại Bồ Tát thường rộng, Phật giáo vô lường. Thế mà kẻ tầm thường vẫn còn buồn bã than khóc, sao không mau tỉnh ngộ, lấy nhẫn nhục làm giáp trụ, lấy tinh tiến làm giáo mác thì lấy gì mà đánh ma quân, phá phiền não để cầu đạt tới Vô thượng Bồ Đề?”.
Sau đó sư vào núi Uyên Trừng phủ Nghệ An(1)thụ giới cụ túc với thiền sư Pháp Giới. Một hôm thấy người hầu của một tín chủ mang gạo lên cúng cho nhà chùa, lỡ tay làm đổ xuống đất, người ấy lo sợ, vội vốc cả gạo lẫn đất. Sư thấy vậy lấy làm hối hận, nghĩ rằng: “Ta sinh ra không có ích ghi cho ai, chỉ làm cho mọi người phải cung đốn vất vả nên mới đến nỗi như thế”. Từ đó sư chỉ ăn rau mặc lá không phải lo lường gì nữa. Sau gần mười năm sư muốn tìm nơi khác để tu hành đến trọn đời, bèn đến chỗ sâu trong núi Yên Tử(2)kết am tranh mà ở. Mỗi khi xuống núi sư thường quảy túi vải trên đầu gậy, sư đi tới đâu, những lúc nằm ngồi, dã thú trông thấy đều đến thuần phục.
Vua Lý Huệ Tông kính trọng đức vọng của sư, nhiều lần đưa lễ vật đến mời về kinh, nhưng lần nào sư cũng lánh mặt, bảo người hầu trả lời sứ giả rằng:
- Bần đạo ở đất vua, ăn lộc vua, thờ Phật tại núi này đã lâu năm, thửa công đức chưa thành tựu, tự lấy làm hổ thẹn. Nếu ép bần đạo về yết kiến vua thì chẳng những không bổ ích gì cho trị đạo mà cũng chuốc lấy sự hủy báng của chúng sinh. Huống chi ngày nay Phật pháp đang thịnh hành, các bậc thầy mẫu mực trong bản đạo đã có đủ để chầu hầu lễ nghi nơi điện các. Xin bệ hạ đoái lượng cho kẻ mặc chiếc cà sa thô lạnh này được nương thân Phật đạo trong chốn núi rừng, khỏi phải đến kinh đô.
Từ đó sư quyết không xuống núi.
Có thầy tăng hỏi:
- Từ khi đến núi này, hòa thượng làm những việc gì?
Sư đáp:
- Ná dĩ Hứa Do đức
Hà tri thế kỷ xuân
Vô vi cư khoáng dã
Tiêu đạo tự tại nhân.
Dịch:
Theo Hứa Do tu đức
Nào hay đã mấy xuân?
Vô vi trong cõi rộng
Tiêu dao một tấm thân
Mùa xuân năm Tân Tị niên hiệu Kiến Gia thứ 11 (1221), trước khi thị tịch, sư nghiêm trang ngồi trên tảng đá, đọc bài kệ sau:
Huyền pháp giai thị huyễn
Huyễn tu giai thị huyễn
Nhị huyễn giai bất tức
Tức thị trừ chư huyễn.
Dịch:
Huyễn pháp đều là huyễn
Huyễn tu dều là huyễn
Hai huyễn đều xa lìa
Tức là trừ các huyễn
Nói xong sư an nhiên mà hóa. Môn nhân là Đạo Viên làm lễ mai táng sư trong hang núi.
Nguyên chú:Lại theo sách Tự ngu tập nói không biết rõ sư quy hóa ở đâu
*
* *
Thế hệ thứ mười lăm
7 người, chỉ chép 1 người
Cư sĩ ỨNG VƯƠNG
Ứng Vương cư sĩ họ Đỗ, húy Văn(1), người phường Họa thị (chợ Vế?) ở kinh đô Thăng Long. Cư sĩ tính tình rộng rãi, không lo bon chen việc đời. Lúc đầu cư sĩ làm quan dưới triều Chiêu Lăng(2)đến chức Trung phẩm phụng ngự. Những lúc rỗi rãi cư sĩ dốc chí vào Thiền học, tay trong mấy khi rời quyển sách,, tìm tòi đến cùng để hiểu ý tổ, thấu triệt tâm tông.
Cư sĩ thụ nghiệp với thiền sư Tức Lự ở chùa Thông Thánh hiểu sâu các bí quyết, nhờ đó phong độ thiền tông không suy trệ, đạo nhãn thêm cao. Sau khi được truyền tâm ấn, cư sĩ trở thành bậc tai mắt trong chốn tùng lâm, cũng ngang hàng quốc sư Nhất Tông, thiền sư Tiêu Dao, Giới Minh, Giới Viện v.v...
(Hết Quyển Thượng)
*
* *
(1)Hỗn độn:chỉ thời kỳ hỗn mang khi mới khai thiên lập địa.
(2)Phật Uy Âm: Bhismagarjitavararaja.
(1)Sa Bà:Thuật ngữ Phật giáo dịch âm từ chữ Sanskrit: Saha, nghĩa là khó kham nhẫn, khó chịu đựng, nơi có loài ngườivà các loài chúng sinh khác đang sống.
(2)Sáu đạo (lục đạo): cõi trời, cõi người, cõi Atula, quỷ, cõi súc sinh, cõi địa ngục, chỉ chung sáu đường của cuộc luân hồi.
(3)Ba đường(Tam đồ): chỉ: đường lửa (hoả đồ) ở địa ngục lửa cháy; đường máu (huyết đồ) nơi súc sinh ăn thịt lẫn nhau; đường gươm đao (đao đồ) nơi quỷ đói bị gươm đạo bức bách.
(4)Đồ Trừng,thường gọi là Phật Đ Trừng, nhà sư Ấn Độ đến Lạc Dương (Trung Quốc) năm Vĩnh Gia (307-313) đời Tấn.
(5)Nguyên Văn in: nhiễu kỳ nhân, với chữ ‘nhiễu’ (rối loạn), đúng ra là chữ nhiễu (xoay quanh), nhầm do đồng âm.
(1)Nguyên văn: từ mục tương cố (bốn mắt nhìn nhau) chỉ việc sư đệ truyền tâm pháp, không cần dùng lời nói.
(2)Tác giả bài Tựa muốn nói Vô Ngôn Thông là vị thiền sư mở đầu dòng Thiền mang tên của vị thiền sư đó: thiền phái Vô Ngôn Thông. Trước Vô Ngôn Thông đạo Phật đã được các nhà sư Ấn Độ, Trung Á, theo đường biển đến truyền giảng ở nước ta như Ma Ha Kỳ Vức (Mahajivatra) từng đến Luy Lâu thời Sĩ Nhiếp (168 – 198) v.v...
(3)Vô thượng chính giác: giác ngộ chân chính ở bậc cao nhất (tức là Phật).
(4)Sáu trần(lục trần) cũng gọi là sáu giặc (lục tặc) nói sáu thú làm mê hoặc con người; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
(5)Bốn tướng (tứ tướng): có nhiều nghĩa, ở đây dùng với nghĩa “hữu vi tứ tướng” (sinh, trụ, dị, diệt).
(1)Thích như Trí, sa di Tính Nhu v.v... cùng các thiện nam, tín nữ ghi ở đây là những người đã đóng góp công của cho việc khắc in lại sách này vào năm 1715.
(1)Nay thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Chùa đã được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa (Quyết định 09-VH/QĐ 21-2-1975 của Bộ Văn Hóa).
(2)Không học: chỉ Phật học.
(3)Tức Sách Truyền đăng lục do Hòa thượng Đạo Nguyên (đời Tống) soạn.
(1)Một năm tu hành tính là một hạ.
(2)Mã Tổ:tức Thiền sư Đạo Nhất (709-788) họ Mã, học trò của Nam Nhạc Hoài Nhượng (677 – 744).
(3)Thị tịch:có nghĩa là nhập Niết Bàn (tức là chết). Các từ quy tịch, viên tịch, tịch diệt cũng đồng nghĩa. Trong sách này dùng cả những từ thông thường như: “Thệ” (qua đời), “thọ chung” v.v... (không có gì phân biệt), chúng tôi cũng theo đó mà dịch bằng những từ thường dùng.
(4)Bách Thượng Hoài Hải (720-814), đệ tử của Mã Tổ Đạo Nhất.
(1)Ý của thiên sư Vô Ngôn Thông là Thiềnhay Thiền sưkhông phải là một cái gì có thể định nghĩa được, như cây thôi lư kia, nhìn thẳng vào đó thì thấy ngay, khỏi cần qua trung gian ngôn ngữ và khái niệm. (Theo Nguyễn Lang, Sđd, tr.155).
(2)Ngưỡng Sơn thiền sưphát hiệu Tuệ Tịch (mất năm 916) thế hệ thứ 4 phái Tào Khê, tổ thứ nhất phái quy Ngưỡng.
(3)Sa di:tức là bậc tiểu tăng, chỉ mới chịu 10 điều răn giới.
(2)Theo bản dịch nghĩa của Minh Chi trong Lịch sử Phật giáo Việt nam (sđd, tr.111) riêng câu thứ 6 chúng tôi thu lại làm 4 chữ cho hợp số chữ của nguyên văn.
(3)Hoả táng:chữ Hán dịch Phạn ngữ là Đồ Tì, cũng dịch là Chà (Đồ) Duy, người nước ta thường quen đọc là Trà Tì. Văn bản TUTA cũng in là Trà Tì.
(1)Ở đây có sự sai lầm (có lẽ do rách thiếu ở bản in) xem thêm ở Lời giới thiệu.
(2)Nguyên văn chép “Thông thiền sư”, cũng là một cách gọi gọn của thiền sư Vô Ngôn Thông.
(1)Nguyên văn ghi: Đệ nhị thế (thế hệ thứ hai), điều chỉnh lại”thứ nhất” cho hợp với các số ghi khác.
(2)Nguyên văn ghi là “tính thị” (họ) nhưng bỏ trống, không ghi rõ họ gì.
(1)Ma Ha Ca Diếp (Mahakasyapa) tổ chứ nhất của Thiền tông Ấn Độ.
(2)Đạt Ma đại sư tức Bồ đề Đạt ma (Bodhidharma) người Ấn Độ, tổ thứ nhất dòng thiền tông Trung Quốc (đến Quảng Châu năm 520 đời Lương Vũ Đế).
(3)Nguyên văn: “... sở ư Đạt ma...”, ở vị trí chứ “ư” đúng ra phải là chữ “ngôn” (... sở ngôn Đạt ma).
(4)Nguyên bản in “... bắc phương khắc lầm chữ “thử” (này) thành chữ “bắc”.
(1)Hương Siêu loại: nay thuộc địa phận huyện Thuận Thành tỉnh Hà Bắc.
(2)A tăng kỳ (Asankhya), nghĩa là nhiều vô số lượng. Mỗi A tăng kỳ kiếp bằng 1000 vạn vạn vạn vạn vạn vạn kiếp. Mỗi kiếp tính bằng 432 triệu năm ở cõi đời.
(1)Thoại đầu:những câu nói có sức khởi phát, cũng có nghĩa như Câu Thiền, lời Thiền suy nghĩ. Sư nghe xong liền đáp:
(1)Chùa Khai Quốc do vua Lý Nam Đế (541-547) cho dựng (ở thôn Yên Trì) và đặt tên để ghi nhận việc thành lập nhà nước Vạn Xuân. Năm 1615, vì bãi sông Hồng sụt lở, dân phường Yên Hoa lời chùa vào dựng ở trong đê, tức là chùa Trấn Quốc ở Hồ Tây Hà Nội hiện nay.
Chùa hiện nay được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa.
(1)Cát Lị(cũng đọc là Cát Lợi) tên hương đời Lý.Đại Việt sử ký toàn thư(Bản kỷ 1, tờ Sa) chép việc Phạm Hạp bị Lê Hoàn đánh đuổi phải chạy về hương Cát Lị ở Bắc Giang, tức là hương này hiện chưa rõ ở đâu.
(2)Ngô Thuận Đế:Một thụy hiệu của Ngô Quyền mà tứ liệu cổ chỉ có Thiền uyển tập sinh ghi lại đây. Theo gia phả họ Ngô thì Khương Việt đại sư (Ngô Chân Lưu) là con Ngô Xương Tỷ, cháu Ngô Xương Sắc.
(1)Tì Sa Môn(Vaisravana), tên vị thần giữ của trong thần thoại Ấn Độ, thần thoại Phật giáo coi là vị thần bảo vệ Phật pháp. Là Một trong bốn vua Trời (Tứ Thiên vương) trấn giữ bốn phương. Vua Trời giữa phương Bắc Tỉ sa môn thiên vương.
(2)Lý Giác (nguyên bản in là Nguyễn Giác) sang sứ nước ta hai lần 9năm 986 và 987); việc Ngô Chân Lưu tiếp đón Lý Giác nói đây là vào năm Lý Giác đi sứ lần thứ hai.
(1)Bài từ nói trên giữa bản in của TUTA và Đại Việt sứ ký toàn thưcó dị biệt một số chữ. Ông Hà Văn Tấn dịch theo văn bản do Hoàng Văn Lâu khảo dị, khôi phục theo điệu từ “Nguyễn lang quy” trong “Một số vấn đề văn bản học Hán Nôm (Viện Hán Nôm) NXB. Khoa học xã hội, 1983, tr.191-211.
(1)Khuông Việt đại sư không thể thọ 52 tuổi, vì như vậy nhà sư phải sinh năm 960, không thể làm Tăng thống năm 971. Trong LSPGVN (tr.132) ông Hà Văn Tấn cũng đã nhận xét: “Nói sư thọ 72 tuổi (in nhầm? đúng là 79) là hợp lý vì năm sinh sẽ là 933, hợp với điều ghi ở trên là “bốn mươi tuổi danh tiếng vang dậy đến triều đình”.
(1)Chùa Cảm ứng:còn gọi là chùa Trăm Gian ở Tam Sơn, huyện Tiên Sơn, Hà Bắc ngày nay. Núi Ba Sơn, cũng gọi là Ba Tiêu, nay gọi là Tam Sơn.
(2)Quốc Bảo Hòa:trong TVLT1 ở tiểu truyện Lã Định Hương (tr.237) cũng có ghi tên người này nhưng với chữ Bảo là quý, báu, và ghi là quốc sư Bảo Hòa. Nguyên bản TUTA không chép là quốc sư và chữ Bảo là bộ thủ + bao.
(1)Nguyên bản in nhầm là Từ Sơn, đúng ra là “tư sơn” nghĩa là núi này, tức là núi Thiên Phúc (Thiên phúc phong) đã ghi ở trên. Văn bản TUTA có đến mấy chỗ “tư sơn” khắc nhầm thành “Từ sơn” như vậy.
(1)Huyện Long Đàm nay thuộc địa phận huyện Thanh Trì ngoại thành Hà Nội.
(2)Linh Cảm thái hậu họ Mai, mẹ vua Lý Thái Tông
(3)Tam quán:Thuật ngữ Phật giáo, chỉ phương pháp nhận thức sự vật hiện tượng theo ba phạm trù: Không quán, Giải quán, Trung quán (hoặc Không quán, Hữu quán, Trung quán).
(1)Thiếu thất:tên ngọn núi có chùa Thiếu Lâm, nơi tu hành của Bồ đề Đạt Ma.
(2)Ma Kiệt:tức Ma Kiệt Đà (Magadha) tên tiểu quốc ở Ấn Độ, nơi Phật thành đạo. Câu này hàm ý hỏi ai là người kế nối Thiền tông.
(3)Nhạc, Hoài:Vừa có nghĩa là Ngũ Nhạc, Hoài Hà, chỉ chung sông núi, ở đây cũng để chỉ của Nam Nhạc Hoài Nhượng
(1)Kim Cốc:tên trang viện đẹp của Thạch Sùng đời Tấn, sau khi Thạch Sùn chết trở thành hoang phế.
(2)Long nữ:người con gái của Long vương Ba Kiệt La, nghe Phật thuyết pháp mà đốn ngộ thành Phật hóa thành con trai bay lên tòa sen (được nói đến trong kinh Pháp Hoa)
(1)Đàn Na:cũng như Đà Na, chữ phiên âm Phạn ngữ, có nghĩa là bố thí.
(1)Tề quân:vua Thủy tề
(2)Quách ông:chỉ Quách Phác (đời Tấn). Phác giỏi âm dương thuật số, nhưng không tính được số mệnh cho mình: Vì cạn gián mà bị Minh Đế giết.
(1)Hứa chân quân:chỉ Hứa Tốn, đạo sỉ đời Tấn.
(1)Tần thủy Hoàng tin đạo Thần Tiên, sai phương sĩ là bọn Từ Phúcđi tìm thuốc tiên. Từ Phúc đưa bộ thuộc ra biển rồi không trở về nữa.Tổ Longlà cách nói của một phương sĩ dùng để chỉ Thùy Hoàng (Tổ là đầu, cũng như Thủy; Long là rồng cũng nghĩa như Hoàng).
(1)Nguyên bản là “vô gian” vừa không rõ nghĩa, vừa thất luật đối. Đây là do chữ “vấn” khắc lầm.
(2)Toàn quy đả ngoã nhân: kẻ dùi mai rùa và đập ngói (mai rùa cứng, dùi mãi vẫn trơ không thủng; đập ngói cho nhỏ thì ngói vỡ không dùng được) chỉ người làm những việc uổng công vô ích.
(3)Thần nữ lệ:Dẫn tích hai bà vợ vua Thuần là Nga Hoàng và Nữ Anh; sau khi vua Thuấn chết, hai bà đến bờ sông Tương thương khóc, nước mắt rơi xuống rừng tre, giống tre ấy từ đó có đốm trắng (tre hoa).
(1)Tứ đại: Thuật ngữ Phật giáo, chỉ bốn yếu tố: đất, nước, lửa, gió hợp thành con người (và muôn vật).
(1)Ngôn ngữ đạo đoạn:Chân lý cứu cánh không thể nói lên bằng lời được, con đường ngôn ngữ bị cắt đứt.
(1)Vạch thuyền:chữ Hán là “khắc chu”: xưa có người nước Sở đánh rơi thanh kiếm xuống sông bèn đánh dấu chỗ rơi kiếm vào mạn thuyền để biết chỗ mà tìm! Tất nhiên thuyền đi tới đấu cái dấu theo đến đấy, không biết tìm đâu.
(1)Nguyên bản: “lạp nguyệt ngũ thập lục” (lạp nguyệt) đúng phải là “lạp niên” chỉ số năm tu hành (chẳng hạn: Kể dằng lục dùng “thế lạp” để chỉ tuổi đời, pháp lạp” để chỉ tuổi tu hành)
(1)Chùa Diên Linh ở núi Long Đội, tức núi Đọi nay thuộc xã Đội Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam Ninh. Theo văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh (do Nguyễn Công Bật soạn) thì cả chùa và tháp Sùng Thiện Diện Linh do vua Lý Nhân Tông cho khởi công xây dựng năm Hội Tường Đại Khánh 9 (1118). So với điều ghi trong truyện này nói Cứu Chỉ mất trong khoảng niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065) thì không hợp. Như vậy có thể năm 1118 chỉ là năm trùng tu chùa Sùng Thiện Diên Linh (đã có từ trước) hoặc có sự lầm lẫn tư liệu về năm sống của thiền sư Cứu Chỉ. Xin ghi lại để tiện thao khảo.
(1)Đoạn đối thoại này trong nguyên bản TUTA có lẽ in sót sai vài chữ, trong đó có chữ “sơn” mới xuất hiện để chỉ một trong hai người (Định Hương hoặc Cứu Chỉ) nhưng cũng lại không thống nhất.
(2)Nguyên bản in là Lương Văn Nhậm, chỉnh lý lại theo chính sử ghi vị thái sư này là Lương Nhậm Văn.
(1)Nguyên văn: “Bất ư nghiệp trung phân biệt, bất ư báo trung phân biệt nghiệp” , xét ý đối hai vế của câu này thì biết sau chữ “Phân biệt” ở vế một in một chữ “báo”.
(2)Pháp hữu vị là thế giới hiện tượng có sinh diệt, biến hóa; pháp vô vi là cảnh giới không sinh diệt, tịch tĩnh.
(1)Hoả quang tam muội:loại thiên định phát ra lửa, tự thiêu cháy thân xác, cũng gọi là Hỏa quang định
(1)Hàn Sơn: tức Hàn sơn tử (ở núi Thiên Thai) và Thập Đắc (ở chùa Quốc Thanh) là hai cao tăng đời Đường.
(2)Nguyên bản TUTA in nhầm là Đoàn Văn Liễm (chữ Khâm và chữ Liễm dễ nhầm).
(1)Nguyên bản in nhầm là “Viên sư Đan Chiếu”.
(2)Tức Ý Lan nguyên phi, mẹ vua Lý Nhân Tông, được phong Hoàng thái hậu năm 1073. Theo Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ 3, t 18a) thì thụy hiệu của của bà là “Phù Thánh Linh Nhân hoàng thái hậu”, không có chữ “Cảm”
(1)Văn thù cũng tức là Văn Thù Sư Lị (Mânjuri) vị Bồ tát đệ tử của Phật Thích Ca.
(2)Chánh pháp nhân tạng:chánh pháp bao hàm muôn đức (tạng) như con mắt trí tuệ (nhãn) nhìn thấu khắp tất cả mọi sự vật, hiện tượng.
(1)Giáo ngoại biệt truyền: Trương truyền Tổ Đạt Ma khi qua Trung Quốc có nói bốn câu thơ, sau này thành tôn chỉ của Thiền tông Trung Hoa: “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”. Nghĩa là:
Không bày đặt chữ nghĩa
Trong truyền ngoài giáo điển
Chỉ thẳng vào Tâm người
Thấy được tánh mà thành Phật
Ý tứ là: chân lý hay là thực tại siêu việt ngôn ngữ, kinh sách. Giáo điển chỉ là cái bè qua sông, ngón tay chỉ mặt trăng. Tu thiền là chỉ thẳng vào Tâm; thấy được tánh tức là giác ngộ được Phật tính thì sẽ thành phật (Minh Chi chú)
(2)Ma Đằngcũng gọi là Nhiếp Ma Đằng, một trong hai nhà sư Ấn Độ đến Trung Quốc đầu tiên (năm 68 đời hán Minh đế)
(3)Thiên thai trí giả:tức sư Trí Khải (đời Tùy) tổ thứ ba của Thiên thai tông
(4)Mâu Bác (người đời Hán) sang Giao Châu thời Sĩ Nhiếp (187-226) có tá phẩm Lý hoặc luận
(5)Khương Tăng Hội:tức Tăng Hội nhà sư người nước Khương Cư (Sogdiane, nay buộc Udơbếch, Liên Xô) sinh và xuất gia ở Giao Châu rồi sang Trung Quốc truyền giáo
(1)Tức vinitaruci, có truyện riêng trong sách này.
(2)Điều ngự;một trong mười hiệu của Phật Thích Ca.
(3)Tam bảo:chỉ ba thứ quý báu nhất của đạo Phật là Phật, Phát, Tăng.
(4)Luy lâu: Cũng đọc là Liên Lâu, thủ phủ Giao Châu thời Bắc thuộc (nay thuộc địa phận huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc).
(1)Ma ha Kỳ Vực (Mahajivaka) nhà sư Ấn Độ đến Luy Lâu khoảng năm 168-169.
(2)Chi Cương Lương: (Kalaruci) nhà sư người nước Nhục chi (Trung Á) đến nước ta đầu thế kỷ thứ III.
(3)Nguyên bản TUTA ở câu này khắc rối mấy chữ: “... hữu pháp đắc Hiện thượng pháp sĩ”. Đúng ra hai chữ “đắc pháp” phải để sau chữ sĩ.
(1)Nguyên bản in là ngộ Pháp Hoa, nhầm do Ngô và ngộ gần âm mà khắc nhầm chữ.
(2)Nguyên bản in là Long Chương Bảo Tự, sửa lại cho đúng là Thiên Chương Bảo Tự (1133-1138).
(1)Đúng họ của Mãn Giác là họ Lý, thân phụ là Lý Hoài Tố sang sứ nhà tống năm 1073.
(2)Thiền na;Phiên âm tiếng Phạn (dhyana), cũng có nghĩa là thiền đinh.
(3)Nguyên bản in nhầm là Anh Vũ Chiến Thắng
(1)Ninh sơn:tên xã thuộc huyện Hoài Đức ngoại thành Hà Nội.
(2)Nguyên văn: Cụ túc giói có nghĩa là giới đầy đủ: Tì Khưu 250 giới, Tì Khưu nỉ 500 giới.
(1)Chữ Hán là miêu nhi, nguyên bản in chữ miêu là cây mạ (thiếu bộ Khuyển).
(2)Nguyên văn: “... hòa thượng như hà độc vô”, còn có thể hiểu là: sao hòa thượng lại nói hòa thượng không có (Phật tính)?”
(1)Ngô pháp Hoatức thiền sư Thông Biện, em truyện riêng trong sách này.
(1)Mỹ Lãng: nay thuộc địa phận huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Sơn Bình. TUTA viết nhầm chữ “quân” (trong từ quân tử). ĐNTU đã chỉnh lại là quận Mỹ Lương.
(1)Nguyên bản in chữ “huệ”, đúng phải là chữ “Tuệ” (trí tuệ).
(1)Hải thanh:tên hương thuộc lộ Thiên Trường, đời Lê thuộc trấn Sơn Nam Hạ. Nay thuộc tỉnh Hà Nam Ninh. Chùa Nghiêm Quang sau đổi tên là Thần Quang (1167), nguyên ở hữu ngạn sông Hồng, đã bị hủy hoại vì lũ lụt. Năm 1630 dân sở tại dựng lại chùa ở tả ngạn sông Hồng nay thuộc xã Duy Nhất huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình, thường gọi là chùa Keo Dưới. Chùa đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa
(1)Nam tông đồ; tức Nam tông tự pháp đồcủa Thường Chiếu.
(1)Lệ Thủy:sách Hàn Phi Tửchép: sông Lệ Thủy ở Kinh Nam có vàng, có lệnh cấm ai đãi trộm vàng thì bị phanh thây, nhưng người ta vẫn đãi trộm, vì tin là mình không bị bắt.
(1)Phù cầm: tên hương đời Lý, ở bơ nam sông Như Nguyệt; nay là thôn Phù Cầm, xã Dũng Liệt, huyện Yên Phong tỉnh Hà Bắc.
(1)Duy ma, tức Duy Ma Cật (Vimalakirti) tên vị trưởng lão sống cùng thời với Phật; tuy là tu gia nhưng trình độ Phật học và chứng đắc không thua kém gì các vị Đại Bồ Tát như Văn Thù. Kinh Duy Ma chép lời đối đáp của ông với Bồ Tát Văn Thù; còn có tên là Tịnh Danh.
(2)Giáo ngoại;xem chú thích ở truyện thiền sư Thông Biện
(1)Núi Không Lộ: tức núi Thầy ở xã Sài Sơn huyện Quốc Oai tỉnh Hà Sơn Bình.
(1)Nguyên bản in là Canh thân, đúng ra niên hiệu Thiên Tư Gia Thụy thứ 5 (1190) là năm Canh Tuất.
(2)Thối, trác;nguyên nghĩa chữ Hán thốilà nuốt, tráclà mổ. Từ nhà Phật quen dùng làm hoán dụ để chỉ việc người học đạo thỉnh vấn thiền sư (tựa như gà con sắp mổ vỏ trứng để chui ra, gà mẹ giúp mổ bên ngoài cho vỡ hẳn vỏ trứng).
(3)Nguyên bản sau 2 chữ “kệ tất” là hết mục chép về thiền sư Tín Học, có lẽ thiếu mấy chữ.
(1)Xà lê nghĩa là bậc cao tăng uy tín đáng làm mẫu mực cho các tăng. Đây nói sư Tỉnh Không
(1)Sat;Tức Sát Đa La, dịch âm tiếng Phạn, có ba nghĩa” 1-Cõi đất, 2-Vũ trụ lớn, 3-Tháp chùa; ở đây theo nghĩa thứ nhất
(1)Thiên cực công chúa: con gái vua Lý Anh Tông
(1)Thập nhị nhân duyên: mười hai nguyên nhân sinh ra mọi đau khổ ở đời: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập (ngũ quan và trí tuệ), Xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử. Trong đó. “vô minh” (avidya, - tình trạng mông muội thiếu hiểu biết về lẽ tử sinh, như đám mây mù che mắt) là nguyên nhân quan trọng nhất.
(2)Bích chi phậtdịch âm đầy đủ là Bích Chi Ca Phật Đà (Prateyka – Boudha) nghĩa là duyên giác, nhờ giác ngộ về lý thập nhị nhân duyên.
(3)Nghiệp thức;do căn bản vô minh không giác ngộ mà tâm động (nghiệp thứ ba trong thập nhị nhân duyên).
(1)Tứ xà;cũng gọi là Tứ đại thuật ngữ Phật giáo chỉ bốn yếu tố dất, nước, gió tạo nên thân tâm con người (ví như bốn con rắn nhốt chung một giỏ)
(2)Ngũ uẩn: năm yếu tố sắc, thụ, tưởng, hành, thức; chúng sinh (vạn vật) đều do năm yếu tố ấy tụ hợp mà thành.
(1)Nhờ niệm phật mà vua định, gọi là phép niệm Phật tam muội Tam muội có nghĩa là
(1)Nguyên văn bản in bỏ trống 1 chữ, chú là “Thái Tổ húy” tức là chữ “Thừa” (kiêng húy đời Trần).
(1)Cát Lị Hi: phiên theo nguyên bản; ngờ thừa chữ Hi,(Hương Cát Lị đã được nói đến một lần ở truyện sư Khuông Việt, còn tên hương Cát Lị Hi (?) thì chưa gặp)
(1)Vệ Linh; tên núi, tức núi Sóc, nay thuộc xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn ngoại thành Hà Nội.
(1)Về quê quán của thiền sư Tịnh Giới, nguyên bản TUTA in là: “... Hải Ngung Giang Mão hương”, trước chữ Hải có một chữ nữa cũng thuộc nhóm từ địa danh, nhưng cả hai bản in TUTA hiện còn đều bị mờ nhoè chữ ấy, vì ậy các nhà nghiên cứu chỉ ghi Tịnh Giới quê ở hương Giang Mão (TVLT1, tr.538), làng Giang Mão (Ngô Tất Tố – Văn học đời Lý,tr.90) v.v... Chúng tôi đã đối chiếu với Đại Nam thiền uyển truyền đăng lục (Sđd, tờ 29a) đọc rõ được chữ nhoè ấy là chữ Lô (Lô Hải Ngung, Giang Mão hương). Nhưng như vậy cũng vẫn còn chưa rõ vì có đến vài cách ngắt mạch để hiểu về địa danh này, tạm ghi là “hương Giang Mão đất Lô Hải Ngung” để chờ tra cứu thêm. Tịnh Giới húy là Hải Ngung tức là lấy hai chữ trong địa danh để đặt tên.
(1)nguyên bản in: “Thủy thủy tâm nguyệt dẫn tâm nghi”, nhầm vị trí, chữ “thủy” thứ hai đáng phải để sau chữ “tâm”.
(1)Độ: thuật ngữ Phật giáo, dịch Phan ngữ paramita,có nghĩa là vượt qua giới hạn (giữa mê tối và giác ngộ) sau mang thêm nghĩa: cho phép xuất gia tu hành. Ở đây nói Tịnh Giới nhờ có công cầu mưa linh ứng nên được bỏ qua việc thiếu thuế, được chính thực công nhận làm tăng.
(1)Như lai Tạng (Tathàgatagarbha), thuật ngữ Phật giáo, có nghĩa là Tâm, nơi bắt nguồn của pháp tính.
(1)Hà Trạch tức thiền sư Lôi Hà Trạch đã được thiền sư Thông Biện nhắc đến khi nói chuyện với Linh Nhân Hoàng thái hậu: “Dòng của Khương Tăng Hội thì nay có Lôi Hà Trạch”. Chưa thấy tài liệu nào ghi tiểu truyện của Lôi Hà Trạch.
(1)Theo bản dịch trong Kiến văn tiểu lục (NXB. Sử học, H.,1962, tr.234)
(2)Phép thần túc: phép thần thông chân đi nhanh như ay
(3)Nguyên bản in chữ “giác” (góc, sừng), không có nghĩa, do chữ “dụng” lầm thành.
(1)Điểm nghạch.Theo truyền thuyết: cá chép nếu vượt được long môn (hoặc Vũ môn) thì sẽ hóa thành rồng, không vượt được thì bị đánh dấu vào trán (để không cho quay lại vượt lần thứ hai), vì vậy người ta thường dùng điển tích này để chỉ người đi thi chượt; ở đây hiểu với nghĩa là tu hành không đặc tạo.
(2)Trước năm 25 tuổi Giáp Hải làm nghề đánh cá, đã có vợ con, sau mới xuất gia.
(1)Nguyên bản chép là Trí Thiền, đúng ra là Thiền Trí tức Tô Minh Trí (thế hệ thứ mười dòng Vô Ngôn Thông)
(1)Âu công:Chỉ thiền sư Âu Đạo Huệ; Kiến Sơ:tên chùa, nơi thiền sư Vô Ngôn Thông trụ trì.
(1)Chùa Lục Tổ cũng gọi là chùa Cổ Pháp ở xã Đình Bảng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc ngày nay.
(1)Pháp luân: bánh xe pháp. Phật pháp ví dụ như bánh xe, luân luôn được giảng thuyết hành từ, cũng như bánh xe luôn luôn chuyển động (vì vậy có câu Pháp luân thường chuyển)
(2)Ba tưứ pháp(Tam chủng pháp): hữu vi pháp, Vô vi pháp, Bất khả thuyết pháp.
(3)Nguyên văn: “đoạn ưng vô đoạn” ý nói ba thứ pháp tuy tách rời để diễn đạt nhưng thực ra là thâm nhập lẫn nhau, không tách biệt.
(1)Theo Nghệ văn chítrong Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn, thiền sư Thường Chiếu còn soạn sách Thích đạo khoa giáo, một quyển.
(1)Không tướng: Chân tâm không có tướng để có thể thấy và nắm bứat được.
(1)Thời tiết:chỉ lúc họ mang hết, sắp trút hơi cuối cùng
(1)Nguyên văn “Chiến đối bản” tức tập sách của Thông Biện, sau được thiền sư Biện Tài, nói Biện Tài “vâng sắc chỉ” biên sửa thành sách Chiếu đốilục”
(1)Tức là tập Nam tông tự pháp đồcủa Thường Chiếu.
(2)Na Ngạn:tên huyện đời Trần, nay là đất huyện Lục Ngạn, tỉnh Hà Bắc
(1)Giải hạ: tức ngày rằm tháng bảy. Theo lệ cổ của Phật giáo, hàng năm các tăng, ni đến chùa tu hành trong ba tháng mùa hạ (lễ kết hạ vào ngày rằm tháng tư) sau lễ giải ba, tăng ni được tự do hành cuộc hoặc trở về quê quán.
(2)Pháp khí: từ Phật giáo, chỉ những nhà tu hành có thiên tư, năng lực giác ngộ và truyền tu Phật pháp.
(1)Đây là cách nói của các nhà truyền giáo đạo Phật, nhất là của phái Thiền tông để nhấn mạnh cái ý phải phá bỏ mọi chấp trước, kể cả về thiện, ác v.v... để đạt tới giác ngộ
(1)Núi Yên Tử:nay thuộc huyện Đông Triều, tỉnh quảng Ninh.
(2)Về thiền sư Trí Thông (thầy của Hiện Quang) trong Tập san Khoa học xã hộisố 7 (Paris, 1980, tr.103 và 107) ông Hoàng Xuân Hãn ghi: Trí Thông là Thông sư (tức Thông sư cư sĩ), có thế lầm?
(1)Nghệ An phủ:chữ Nghệ bản in khắc nhầm thành chữ Hựu.
(2)Nguyên văn bản in: “Toại thâm nhập Từ Sơn, kết mao cư yên”. Ở đây bản in khắc lầm chữ “tư” (này, ấy) ra chữ Từ (với chữ tư + bộ tâm ở dưới) là tên phủ Từ sơn ở trấn Kinh Bắc. Đúng ra “tư sơn” (núi ấy) tức núi Yên Tử; nơi trụ trì của Hiện Quang, theo thông lệ của sách này đã nêu ngay ở câu đầu truyện. Soạn giả không ghi chi tiết việc Hiện Quang từ Nghệ An ra núi Yên Tử như thế nào.
(1)Nguyên văn: “... Húy Văn tính pha sơ khoáng”. Trong LSPGVN ghi là Đỗ Văn Tính. Chúng tôi hiểu tên húy của vị này chỉ một chữ Văn, còn chữ “tính” đi với câu sau. Theo câu cuối ở truyện thiền sư Tức Lự thì biết Ứng Vương cư sĩ còn có hiệu là Ứng Thuận cư sĩ (người nối pháp của Tức Lự).
(2)Chiêu lăng:tên lăng của Trần Thái Tông (ở ngôi 1225 – 1231), ở đây dùng lăng hiệu để gọi triều vua.
---o0o---
Vi tính: Quảng Đại, Quảng Khánh, Quảng Tuệ, Diệu Đại
Trình bày: Nhị Tường