Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kisagotami

09/04/201311:48(Xem: 4117)
Kisagotami


Kisagotami - Bà Mẹ Khổ Đau
Tác giả: Piyadassi Mahathera
Dịch giả: Phạm Kim Khánh

--- o0o ---

Chỉ Một Nhúm Hột Cải

Tích chuyện Bà Kisagotami (1) là một trong những chuyện cảm động nhất được ghi nhận trong kinh điển. Bà sanh trưởng trong một gia đình nghèo tại thành Savatthi (Xá Vệ). Bà thuộc dòng Gotama, và do đó là họ hàng với Đức Phật Gotama. Vì có thân hình mỏng manh yếu ớt nên người ta gọi bà là Kisa (có nghĩa là ốm gầy) Gotami. 

Khi đến tuổi trưởng thành bà được gả cho người con trai của một thương gia, và đúng lúc, hạ sanh một trai. Than ôi, khi bé lớn khôn vừa đến tuổi bặp bẹ nói và biết chơi thì chết, làm cho mẹ vô cùng sầu thảm. Vì tình thương con vô bờ bến, đứa con duy nhất, bà không thể tin rằng con bà đã thở hơi thở cuối cùng, ôm con vào lòng chạy đôn chạy đáo tìm thuốc cứu mạng. Trong toàn thể vùng Savatthi không vị lương y nào có thể cứu sống một người chết.

Vì quá sầu muộn bà như người mất trí, bôn ba chạy từ nhà này sang nhà khác, khóc nức nở, van kêu: ‘Cúi xin quý ông quý bà rộng lòng cho tôi thuốc để cứu mạng con!’. Tuy nhiên, dân chúng không thể thuyết phục bà rằng đứa bé đã chết. Nỗi khổ đau của bà quá sâu đậm để có thể nhận định đúng mức lời họ. Sau cùng có một vị trưởng lão sáng suốt thấu hiểu tâm trạng đáng thương của bà mẹ đang khóc sướt mướt, khuyên bà nên đến gặp Đức Phật Tối Thượng, Đức Bổn Sư Đại Từ Đại Bi, vào lúc bấy giờ đang cư ngụ tại Tịnh Xá Jetavana (Kỳ Viên) của Trưởng Giả Anathapindika (Cấp Cô Độc), tại Savatthi.

Bà lật đật tuôn chạy đến tịnh xá, đặt đứa con chết dưới chân Đức Bổn Sư, đảnh lễ Ngài và thuật lại câu chuyện rất thương tâm có thể làm mềm dịu quả tim chai cứng nhất.

Đấng Đại Bi nhìn bà với cặp mắt dịu hiền và nhỏ nhẹ nói: ‘Này bà chị thân mến, có một món thuốc thần hiệu chắc chắn chữa được bịnh, Như Lai sẽ hàn gắn vết thương lòng của bà. Chỉ cần tìm cho Như Lai một nhúm hột cải xin từ bất cứ nhà nào trong thành này.’ Bà Gotami nghe những lời an ủi ấy thì lòng mừng vô hạn.

‘Nhưng nên ghi nhận, này Gotami,’ Đức Bổn Sư nói tiếp, ‘rằng phải xin hột cải ấy từ một nhà nào mà chưa từng bao giờ có người chết.’

Tuy nhiên, vì quá đổi vui mừng bà Gotami không thấu hiểu ý nghĩa lời nói của Đấng Toàn Giác. Với ước vọng cứu được đứa con yêu dấu, bà tức khắc vội vã chạy tìm hột cải. Tất cả mọi người trong thành đều tận tình thương hại bà và rất sẵn sàng cho hột cải mà bà hết lòng mong tìm. Nhưng than ôi! bà không thể tìm một nhà nào mà mara, thần chết, chưa hề đến viếng.

Trời đã về chiều, mặt trời lặng lẽ, nhẹ nhàng lặn chìm trong vùng trời ở phương Tây, đàn chim vội vàng bay về ổ, và Bà Gotami cuối cùng nhận thức tánh cách phổ cập của hiện tượng chết. Chân lý phủ phàng rọi sáng cho bà như một ánh chớp, và bà thông hiểu rằng tất cả những gì yêu quý mến thương nhất trên đời đều vô thường. Tất cả mọi sum họp đều chấm dứt trong chia ly và đời sống suy tàn, biến tan vào cõi chết. Do đó bà đi ra ngoại ô thành, đặt con trong một bãi tha ma rồi về tịnh xá, vừa than:

‘Đây không phải là luật lệ của xóm làng, không phải luật của thành phố.

Không phải là luật chỉ để áp dụng riêng cho gia đình này hay gia đình khác;

Mà cho toàn thể thế gian - hơn thế nữa, cho tất cả chư thiên trên cảnh trời.

Đây là định luật: tất cả đều vô thường’ (2).

‘Này Gotami, bà có tìm ra hột cải không?’ Đức Thế Tôn hỏi.

‘Bạch Đức Thế Tôn, con ra đi, bế trong lòng

Đứa con càng lúc càng lạnh dần, đi từng nhà để hỏi xin -

Từ nơi rừng rậm này đến thành phố -

Cúi xin ông bà ban ơn ban phước,

Cho tôi chút hạt cải’, và mọi người ai có cũng đều cho.

Vì tất cả người nghèo đều thương hại người nghèo;

Nhưng khi con hỏi, nơi đây, tại nhà bạn,

Đã từng có người chết hay không -

Chồng, vợ, hay con, hay người làm công? họ trả lời:

‘Này bà chị! Bà hỏi gì? Người chết

Thì có thật nhiều, người sống chỉ một ít!’

Rồi trả lại hột cải với lời cảm tạ buồn thảm.

Và van xin ở nhà khác, nhưng người khác nói.

‘Đây là hột cải, nhưng người làm công trong nhà đã chết!’

‘Đây là hột cải, nhưng chồng tôi đã qua đời!’

‘Đây là hột cải, nhưng khi gieo mạ xong thì chồng tôi chết giữa mùa mưa và mùa gặt hái!’

Ôi, bạch Đức Thế Tôn! Con không thể tìm đâu ra một nhà có hột cải mà không có người chết!

Do vậy mà con đành lìa bỏ đứa con - nó không còn bú

Cũng không cười - dưới một lùm cây, bên cạnh dòng suối,

Để rồi về đây chiêm ngưỡng dung nhan Ngài,

Đảnh lễ dưới chân Ngài, và bạch hỏi van xin Ngài chỉ cho

Nơi nào có thể tìm ra hột cải ấy và không thấy thần chết,

Quả thật vậy, nếu giờ đây con của con không chết,

Như con sợ, và như người ta nói với con.’

Bà Kisagotami bạch như vậy.

Đức Bổn Sư dạy, ‘Này bà tín nữ! Bà đã tìm ra,’

‘Tìm được cái gì mà không ai tìm thấy -

Niềm an ủi đắng cay mà Như Lai tặng cho bà. 

Đứa con yêu dấu đã an giấc nghìn thu

Trong vòng tay của bà ngày hôm qua;

Hôm nay bà biết rằng toàn thể thế gian mênh mông này

Đều than khóc nỗi khổ đau của họ cũng giống vậy.’ (3)

‘Đối với người mà tình thương đã gắn bó

Tập trung và bám chặt vào con cái và đàn gia súc,

Cái chết tràn đến như trận thủy lụt trong đêm tối,

Càn quét cuốn đi trọn cả làng đang ngon giấc.’ (4)

Những lời của Đức Bổn Sư thấm sâu và tâm bà, lúc bấy giờ đã thấu triệt rằng vô thường là đặc tướng của tất cả mọi hiện tượng sinh tồn. Bà chứng đắc tầng thánh đầu tiên (sotapanna, nhập lưu) và xin xuất gia, gia nhập vào Giáo Hội Tỳ Khưu Ni.

Sau đó không bao lâu, nhờ nghe những thời thuyết giảng của Đấng Bổn Sư Đại Từ Đại Bi, và nhờ chuyên cần hành thiền, bà tiến đến mức tuyệt đỉnh thanh tịnh, tầng thánh cuối cùng, vượt ra khỏi mọi bợn nhơ của đời sống. Về sau, nhớ lại những thành tựu cao cả đã đạt, bà nói lên một số kệ ngôn mà dưới đây xin ghi lại hai câu cuối cùng:

‘Hoan hỷ thay! Ta đã dấn bước

Trải qua con đường Thánh Thiện, Bát Chánh Đạo

Thẳng tiến đến trạng thái cao siêu.

Ta đã chứng ngộ Niết Bàn, và nhìn vào

Gương sáng của Giáo Pháp thiêng liêng.

Ta, chí đến ta, vết thương đau khổ cũng được hàn gắn,

Đã đặt xuống gánh nặng, nhiệm vụ đã viên mãn hoàn thành,

Tâm ta đã hoàn toàn giải thoát,

Ta, sư cô Kisagotami, đã tuyên ngôn điều này!’ (5).

Chú thích:

(1) Paramatthadipani, Chú Giải Bộ Therigatha, Trưởng Lão Ni Kệ.

(2) Psalms of the Sisters, trang 107.

(3) The Light of Asia.

(4) Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 287. Psalms of the Sisters trang 107.

(5) Psalms of the Sisters, trang 109.

Trích theo quyển ‘Phật Giáo, Nhìn Toàn Diện’, do Phạm Kim Khánh dịch, Sài Gòn, Việt Nam, 1996. (Nguyên tác: ‘The Spectrum of Buddhism’ của tác giả Piyadassi Mahathera).


-- o0o --


Vi tính : Diệu Anh Quỳnh Trâm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 3621)
Ở nước ta, khi còn là đất Giao Chỉ thuộc nhà Hán, nhà Ngô, thế kỷ thứ 2 Tây lịch, đã có các Tăng người Ấn Độ sang ở thành Luy Lâu (huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), các Sa-môn này lập am thờ Phật ở chung, đấy là các Tăng đầu tiên của Phật Giáo nước ta. Số Tăng chắc đã khá đông khi Mâu Tử viết sách Tri hoặc Luận tại Luy Lâi vào cuối thế kỷ thứ 2. Còn đến bao giờ mới có nữ giới tu đạo Phật, thành Sa-di-ni, Tỷ-khưu-ni, ta không biết được vì không có sách chép.
08/04/2013(Xem: 4126)
Đã tạo được nhiều phước báu trong quá khứ, vào thời của Đức Phật Siddhattha Gotama, Bậc Tôn Sư Toàn Giác Tối Thượng, nàng Subha tái sanh vào gia đình của một vị bà la môn khả kính tại Rajagaha (Vương Xá, ngày nay là Rajgir, Ấn Độ). Nàng có sắc đẹp tuyệt trần, trong toàn thể thân nàng chỗ nào cũng dễ mến, vì lẽ ấy có tên là Subha. Khi Đức Bổn Sư ngự tại Rajagaha cô đặt niềm tin (saddha) vững chắc nơi Ngài và trở thành một nữ thiện tín.
08/04/2013(Xem: 3299)
Điều tốt đẹp mà người mẹ, người cha, hay bất luận thân bằng quyến thuộc nào có thể làm, một cái tâm hướng thiện có thể, và nâng ta lên đến mức cao quý (2). Lời dạy này được Đức Phật ban truyền trong khi Ngài ngự tại Tịnh Xá Jetavana (Kỳ Viên), trong thành Savatthi, chuyện liên quan đến một ông quan giữ kho. Câu chuyện bắt đầu tại thị trấn Soreyya và kết thúc tại Savatthi.
08/04/2013(Xem: 3994)
Vào lúc hoàng hôn, vầng thái dương dần dần đắm chìm xuống chân trời ở Phương Tây. Ánh sáng của mặt trăng rằm từ từ ló dạng ở Phương Đông. Ngày đã chấm dứt, và màn đêm bắt đầu phủ xuống. Vào lúc bấy giờ vị đạo sĩ ẩn dật tên Upagupta, đệ tử của Đức Phật, rời xa liêu cốc của mình, an nghỉ bên cạnh một con đường đầy cát bụi, dưới vòm trời mịt mờ u tịch, gần vách thành của thị trấn Mathura, Ấn Độ
08/04/2013(Xem: 3798)
Ngày nay, người phụ nữ chiếm tỷ lệ khá cao trong dân số nước ta, cũng như trên thế giới. Chẳng những đông về số lượng, người phụ nữ còn giữ nhiều vai trò quan trọng trong cộng đồng quốc gia hoặc quốc tế. Có thể nói song song với nhịp tiến hóa của nhân loại, người phụ nữ ngày nay đã thăng hoa tri thức và tài năng trong nhiều lãnh vực khác nhau.
08/04/2013(Xem: 3544)
Phật giáo được du nhập vào Hàn Quốc đến nay hơn 1.600 năm, nhưng lịch sử của Phật giáo Hàn Quốc lại không có nhiều ghi nhận về hoạt động của Ni giới. Thật ra ở Hàn Quốc, Ni giới đã có công lớn trong việc truyền bá Phật pháp ở những giai đoạn đầu của lịch sử. Qua các thời đại Tam kinh (37 trước Tây lịch - 668 sau Tây lịch), Silla Thống nhất (668-935), Goryeo (còn gọi Goh Ryur hoặc Koryo, 918-1392), Joreon (còn gọi Joh Surn hoặc Choson 1392-1910) và thời hiện đại ngày nay, Phật giáo tiếp tục được duy trì và phát triển. Tùy địa phương khác nhau mà vị trí, vai trò và sự biểu hiện của Ni giới trong Phật giáo cũng đa dạng tùy duyên.
08/04/2013(Xem: 3675)
Giới học giả đã bỏ ra không ít thời gian và giấy mực để bàn về chuyện bình đẳng hay không bình đẳng giữa Tăng và Ni với những giới luật chênh lệch từ thời đức Phật. Nhận thấy đây là vấn đề hay nên tôi cũng thường lưu tâm khi có những ý kiến mới ...
08/04/2013(Xem: 4152)
Khi Đức Phật Siddhattha Gotarna (Sĩ Đạt Ta Cồ Đàm) thị hiện ở Ấn Độ cách nay hơn 2,500 năm về trước, người phụ nữ có một địa vị rất thấp kém và đê hèn trong xã hội Ấn Độ. Vào thời bấy giờ, trong phần còn lại của thế giới văn minh, trải dài từ Trung Hoa đến Hy Lạp, vị trí của người phụ nữ vẫn khiêm nhường và hạ cấp. Ngày nay, cùng khắp nơi ai ai cũng nhìn nhận rằng Đức Phật là người đã sáng lập một tôn giáo được truyền bá sâu rộng trên thế gian, phổ cập đến những hang cùng hóc hẻm của quả địa cầu, đã ban truyền một triết lý huy hoàng và vĩ đại nhất trong lịch sử tư tưởng loài người.
08/04/2013(Xem: 5325)
Ngôi tự viện nằm phía Đông thành Savatthi là do bà Visakha, vị nữ thí chủ nhiệt thành của Đức Phật, dâng cúng. Bà được Đức Phật ngợi khen là đứng hàng đầu các bà tín nữ. Nhưng hơn nữa, câu chuyện sau đây của bà Visakha và những lời dạy bảo của ông cha bà cho thấy rằng vào thời bấy giờ người ta đối xử rất nghiêm khắc đối với hàng phụ nữ. Mặc dầu thái độ gắt gao đối với nữ giới và mặc dầu cuộc sống của người phụ nữ có rất nhiều giới hạn, nhờ đức tin dũng mãnh nơi Giáo Huấn của Đức Phật, bà Visakha đã có khả năng vượt lên trên những giới hạn ấy.
08/04/2013(Xem: 9143)
Khi đất trời vạn vật được hình thành và con người được xuất hiện trên quả đất nầy, thì giới tính đã được phân chia rõ ràng: Đó là người nam hay người nữ. Từ những thuở xa xưa vai trò và vị trí của người nữ đã sánh vai cùng nam giới trong mọi lãnh vực của cuộc sống và từ đó cộng đồng xã hội đã được hình thành, trật tự xã hội được ổn định và con người càng ngày càng tiến xa hơn ở những lãnh vực khác nhau như văn hóa, chánh trị, giáo dục, v.v…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]