Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thay Hình Đổi Dạng

08/04/201319:55(Xem: 3060)
Thay Hình Đổi Dạng


Một Trường Hợp Thay Hình Đổi Dạng 
Mẹ của Hai và Cha của Hai

Tác giả: Piyadassi Mahathera
Dịch giả: Phạm Kim Khánh

--- o0o ---

‘Điều tốt đẹp mà người mẹ, người cha, hay bất luận thân bằng quyến thuộc nào có thể làm, một cái tâm hướng thiện có thể, và nâng ta lên đến mức cao quý (2).

Lời dạy này được Đức Phật ban truyền trong khi Ngài ngự tại Tịnh Xá Jetavana (Kỳ Viên), trong thành Savatthi, chuyện liên quan đến một ông quan giữ kho. Câu chuyện bắt đầu tại thị trấn Soreyya và kết thúc tại Savatthi.

Trong khi cùng với một người bạn trên đường đi tắm trên một chiếc xe, Soreyya, quan giữ kho, nhìn thấy màu da vàng sáng ngời của Đại Đức Maha Kaccana, một vị Trưởng Lão A La Hán, khi Ngài sửa soạn đắp y vào thành trì bình.

Soreyya lấy làm say mê cái màu vàng sáng chói của nhục thân nhà sư, bỗng dưng nghĩ thầm: ‘-, phải chi vị sư này có thể là vợ ta, hay màu da của vợ ta có thể vàng chói như vị sư này.’ Vừa nghĩ như vậy thì thân người của Soreyya tức khắc biến thành đàn bà (3). Ông hoàn toàn kinh ngạc, vội vã xuống xe và bỏ chạy, trong khi người bạn ngẩn ngơ, nói một cách lúng túng, ‘Điều gì lạ kỳ vậy?’

Khi ông bạn về đến nhà, cha mẹ của quan giữ kho Soreyya hỏi thăm về người con thì ông không biết sao, vì tưởng tượng rằng Soreyya đã chạy về nhà rồi sau khi tắm. Cha mẹ Soreyya cho người đi tìm khắp nơi mà không gặp. Hai ông bà rất buồn, than khóc thảm thương, vô chùa làm phước trai tăng và dâng cùng lễ vật đến Tam Bảo và cũng xin các buổi lễ cầu an cho con.

Về phần Soreyya, giờ đây là một phụ nữ, theo một đoàn thương buôn đi Takkasila (người Hy Lạp gọi là Taxila). Những người trong đoàn nhìn thấy thiếu phụ xinh đẹp thì nghĩ rằng: ‘Quan giữ kho của thành Takkasila chúng ta chưa lập gia đình và đang cần tìm vợ. Ta sẽ mách với ông về sắc đẹp tuyệt trần của người đàn bà này và như vậy ông sẽ ban thưởng chúng ta.’ 

Khi về đến nơi họ giới thiệu người đẹp cho quan giữ kho, một món quà quý giá. Ông ta vô cùng thoả thích trước duyên dáng và sắc đẹp mỹ miều của người đàn bà, đem lòng thương và cưới làm vợ. Bà có hai con với quan giữ kho của thành Takkasila. Trước kia, lúc ở thành Soreyya ông Soreyya là cha của hai con, giờ đây là mẹ của hai con nữa.

Vào lúc bấy giờ, người bạn trước kia cùng đi tắm với Soreyya trên một xe, cũng rời thành Soreyya đi tìm bạn và vào thành Takkasila. Ngày kia thiếu phụ Soreyya từ trên lầu cao nhìn xuống đường thấy người bạn cũ của bà lúc ở thành Soreyya. Lập tức, bà cho gia đinh mời vào và giòn giã chuyện trò.

Ông khách không biết vì lẽ gì mà bà chủ nhà tiếp đón mình nồng hậu khác thường như vậy, hỏi tại sao bà có thái độ quá tự do đối với một người lạ như vậy. Bà chủ nhà trả lời, ‘Tôi biết ông nhiều lắm, có phải ông cư ngụ trong thành Soreyya hay không?’ ‘Đúng vậy, tôi từ Soreyya đến đây.’ Rồi bà hỏi thăm tin tức sức khoẻ của cha mẹ. và bà vợ và hai đứa con. Ông khách hỏi, ‘Bà có biết mấy người đó sao?’ ‘Dạ có, thưa ông, tôi biết rất nhiều. Ông bà ấy cũng có một người con trai. Người ấy hiện giờ ở đâu?’ ‘Kính thưa bà, tôi xin bà chớ nên nói về ông con ấy nữa,’ và ông ta tường thuật đầy đủ diễn biến lạ lùng đã xảy ra.

Trước sự kinh ngạc của khách, bà chủ nhà nói: ‘Chính tôi là người con ấy.’ ‘Bà nói gì lạ vậy? Người ấy là bạn thân với tôi, trẻ đẹp như thần tiên, và là một người nam.’ ‘Không có gì quan trọng đâu, chính tôi và người ấy là một.’

Rồi bà thuật lại lúc ấy bà - là người đàn ông - nhìn thấy vị Đại Trưởng Lão Kaccana và có những ý nghĩ như thế nào. Bà thổ lộ hết những bí ẩn mà từ lâu được gìn giữ sâu kín trong tâm. 

Khi nghe hết câu chuyện, ông bạn vô cùng xúc động và lưu ý rằng hành vi của bà quả thật đáng bị khiển trách, ông khuyên nên đến sám hối với Đức Kaccana. Bà đồng ý.

Ông bạn tìm đến gặp Ngài, lúc bấy giờ cũng cư ngụ gần thành Takkasila và xin dâng cúng trai tăng (dana) ngày hôm sau. Vị Trưởng Lão chấp thuận, và trưa hôm sau ông bạn cùng đến với bà (Soreyya), hướng dẫn bà đảnh lễ sư, và xin sám hối. Đức Kaccana muốn biết lý do. Ông bạn giải thích vì sao bà, từ là một người nam đã chuyển biến thành người nữ.

Rồi Sư chú nguyện: ‘Tốt lắm, hãy đứng dậy, Sư đã tha lỗi cho con.’ Lời chú nguyện vừa dứt, bà liền chuyển biến, từ người nữ trở thành nam. Như thế ấy, Soreyya đã chịu thay hình đổi dạng hai lần trong một kiếp. 

Giờ đây, ông không còn muốn sống đời tại gia cư sĩ nữa. Quan giữ kho của thành phố Takkasila - trước đó là chồng - nói với ông: ‘Này bạn chớ nên buồn phiền. Bạn là mẹ của hai đứa con và tôi là cha, chúng nó thật sự là con của chúng ta. Hãy tiếp tục sống ở đây.’ Soreyya trả lời: ‘Này bạn, trong chính kiếp sống này tôi đã chịu biến dạng hai lần. Trước tiên tôi là đàn ông, kế đó là đàn bà, và giờ đây tôi thành đàn ông trở lại. Trước, tôi là cha của hai đứa con, và sau đó là mẹ của hai đứa. Xin bạn đụng nghĩ rằng sau hai lần chuyển biến, từ nam ra nữ rồi từ nữ thành nam, tôi còn có thể sống đời tại gia cư sĩ nữa. Tôi sẽ gia nhập và Giáo Hội dưới sự hướng dẫn của vị Thầy cao quý của tôi, Ngài Maha Kaccana. Bạn có nhiệm vụ chăm sóc hai con. Xin chớ nên hờ hững bỏ lơ.’ Soreyya nói như vậy rồi ôm hai con vào lòng hôn và trao lại cho cha chúng. Ông từ bỏ đời sống trần tục và trở thành Soreyya Thera, Đại Đức Soreyya.

Khi hay biết câu chuyện, dân chúng tò mò đến gặp Đại Đức và hỏi: ‘Bạch Ngài, trong hai cặp con, Ngài thương cặp nào hơn?’ ‘Cái cặp mà tôi là mẹ’, nhà sư trả lời.

Về sau sư tìm nơi thanh vắng, chuyên cần hành thiền, và đắc Quả A La Hán, tuyệt đỉnh trong sạch, cùng với những oai lực thần thông.

Sau đó dân chúng đến viếng Ngài, nêu lên cũng câu hỏi trên và vị Trưởng Lão trả lời: ‘Không còn luyến ái với gia đình hay bất luận gì thì Sư còn gì bận bịu?’

Chư tăng nghe vậy không tin, đem vấn đề ra bạch với Đức Thế Tôn. Nhân đó Đức Bổn Sư dạy:

‘Này chư tỳ khưu, con của Như Lai không hề nói dối. Từ ngày trở thành thánh tăng, vị sư ấy không còn luyến ái bất luận gì. Điều mà không người mẹ hay người cha nào có thể cung cấp là một cái tâm hướng thiện ban rải đến chúng sanh.’

Chú thích:

(1). Dhammapada Attahakatha, Chú Giải Kinh Pháp Cú, Quyển I trang 325.

(2). Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 43.

(3). Tình trạng thay đổi từ nam trở thành nữ, hay từ nữ trở thành nam thỉnh thoảng đã có được tường trình trong bao chí ngày nay. Trong Tạng Luật của Tam Tạng Kinh Điển Phật Giáo cũng có đoạn đề cập đến vấn đề này. Xem bài ‘Change of Sex in Buddhist Literature’ của P.V. Bapat.

Trích theo quyển ‘Phật Giáo, Nhìn Toàn Diện’, do Phạm Kim Khánh dịch, Sài Gòn, Việt Nam, 1996. (Nguyên tác: ‘The Spectrum of Buddhism’ của tác giả Piyadassi Mahathera).


-- o0o --


Vi tính : Diệu Anh Quỳnh Trâm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 3685)
Vào lúc hoàng hôn, vầng thái dương dần dần đắm chìm xuống chân trời ở Phương Tây. Ánh sáng của mặt trăng rằm từ từ ló dạng ở Phương Đông. Ngày đã chấm dứt, và màn đêm bắt đầu phủ xuống. Vào lúc bấy giờ vị đạo sĩ ẩn dật tên Upagupta, đệ tử của Đức Phật, rời xa liêu cốc của mình, an nghỉ bên cạnh một con đường đầy cát bụi, dưới vòm trời mịt mờ u tịch, gần vách thành của thị trấn Mathura, Ấn Độ
08/04/2013(Xem: 3529)
Ngày nay, người phụ nữ chiếm tỷ lệ khá cao trong dân số nước ta, cũng như trên thế giới. Chẳng những đông về số lượng, người phụ nữ còn giữ nhiều vai trò quan trọng trong cộng đồng quốc gia hoặc quốc tế. Có thể nói song song với nhịp tiến hóa của nhân loại, người phụ nữ ngày nay đã thăng hoa tri thức và tài năng trong nhiều lãnh vực khác nhau.
08/04/2013(Xem: 3260)
Phật giáo được du nhập vào Hàn Quốc đến nay hơn 1.600 năm, nhưng lịch sử của Phật giáo Hàn Quốc lại không có nhiều ghi nhận về hoạt động của Ni giới. Thật ra ở Hàn Quốc, Ni giới đã có công lớn trong việc truyền bá Phật pháp ở những giai đoạn đầu của lịch sử. Qua các thời đại Tam kinh (37 trước Tây lịch - 668 sau Tây lịch), Silla Thống nhất (668-935), Goryeo (còn gọi Goh Ryur hoặc Koryo, 918-1392), Joreon (còn gọi Joh Surn hoặc Choson 1392-1910) và thời hiện đại ngày nay, Phật giáo tiếp tục được duy trì và phát triển. Tùy địa phương khác nhau mà vị trí, vai trò và sự biểu hiện của Ni giới trong Phật giáo cũng đa dạng tùy duyên.
08/04/2013(Xem: 3370)
Giới học giả đã bỏ ra không ít thời gian và giấy mực để bàn về chuyện bình đẳng hay không bình đẳng giữa Tăng và Ni với những giới luật chênh lệch từ thời đức Phật. Nhận thấy đây là vấn đề hay nên tôi cũng thường lưu tâm khi có những ý kiến mới ...
08/04/2013(Xem: 3786)
Khi Đức Phật Siddhattha Gotarna (Sĩ Đạt Ta Cồ Đàm) thị hiện ở Ấn Độ cách nay hơn 2,500 năm về trước, người phụ nữ có một địa vị rất thấp kém và đê hèn trong xã hội Ấn Độ. Vào thời bấy giờ, trong phần còn lại của thế giới văn minh, trải dài từ Trung Hoa đến Hy Lạp, vị trí của người phụ nữ vẫn khiêm nhường và hạ cấp. Ngày nay, cùng khắp nơi ai ai cũng nhìn nhận rằng Đức Phật là người đã sáng lập một tôn giáo được truyền bá sâu rộng trên thế gian, phổ cập đến những hang cùng hóc hẻm của quả địa cầu, đã ban truyền một triết lý huy hoàng và vĩ đại nhất trong lịch sử tư tưởng loài người.
08/04/2013(Xem: 4838)
Ngôi tự viện nằm phía Đông thành Savatthi là do bà Visakha, vị nữ thí chủ nhiệt thành của Đức Phật, dâng cúng. Bà được Đức Phật ngợi khen là đứng hàng đầu các bà tín nữ. Nhưng hơn nữa, câu chuyện sau đây của bà Visakha và những lời dạy bảo của ông cha bà cho thấy rằng vào thời bấy giờ người ta đối xử rất nghiêm khắc đối với hàng phụ nữ. Mặc dầu thái độ gắt gao đối với nữ giới và mặc dầu cuộc sống của người phụ nữ có rất nhiều giới hạn, nhờ đức tin dũng mãnh nơi Giáo Huấn của Đức Phật, bà Visakha đã có khả năng vượt lên trên những giới hạn ấy.
08/04/2013(Xem: 7343)
Khi đất trời vạn vật được hình thành và con người được xuất hiện trên quả đất nầy, thì giới tính đã được phân chia rõ ràng: Đó là người nam hay người nữ. Từ những thuở xa xưa vai trò và vị trí của người nữ đã sánh vai cùng nam giới trong mọi lãnh vực của cuộc sống và từ đó cộng đồng xã hội đã được hình thành, trật tự xã hội được ổn định và con người càng ngày càng tiến xa hơn ở những lãnh vực khác nhau như văn hóa, chánh trị, giáo dục, v.v…
08/04/2013(Xem: 15839)
Trong cuộc sống, có người quan niệm tâm lý là sự hiểu biết về ý muốn, nhu cầu, thị hiếu của người khác, là sự cư xử lý tình huống của một người. Đôi khi người ta còn dùng từ tâm lý như khả năng “chinh phục đối tượng”.
01/04/2013(Xem: 6399)
“ Đức Phật dạy chư tỳ kheo có bổn phận suy xét hằng ngày 4 điều: Ân đức Phật, rãi tâm từ, niệm sự chết và quán bất tịnh!”. Hành giả cần phải: Hành 14 giờ chính thức mỗi ngày bằng thiền, trong tư thế ngồi và đi ...
02/08/2012(Xem: 14047)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567