Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Rome, 31 tháng ba 1966

12/07/201100:50(Xem: 3829)
12. Rome, 31 tháng ba 1966

KRISHNAMURTI
BÀN VỀ XUNG ĐỘT [ON CONFLICT]
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2009

Rome, 31 tháng ba 1966

Liệu có thể tìm ra một cách sống hàng ngày mà được tự do ngay tại cơ bản và tuyệt đối và vì vậy cách mạng? Với tôi chỉ có một cách mạng, và đó là cách mạng tôn giáo. Những cách mạng khác – kinh tế, xã hội, chính trị – không là cách mạng. Cách mạng duy nhất là cái trí tôn giáo đã trong tình trạng nổi loạn, không phải như một phản ứng, nhưng một cái trí đã thiết lập một cách sống trong đó không có mâu thuẫn. Tất cả sống của chúng ta đều trong mâu thuẫn và vì vậy xung đột, hoặc xung đột được sinh ra từ cố gắng để tuân phục, xung đột qua tìm kiếm sự thành tựu, hoặc xung đột được gây ra bởi ảnh hưởng xã hội. Những con người đã sống trong tình trạng của xung đột này suốt toàn lịch sử đã biết được.

Mọi thứ họ tiếp xúc họ biến thành xung đột, bên trong và bên ngoài. Hoặc nó là một chiến tranh giữa những con người, hoặc sống như một con người hiện nay là một trận chiến bên trong. Tất cả chúng ta đều biết sự đấu tranh liên tục, bất tận này, bên ngoài và bên trong. Xung đột có sản sinh một kết quả nào đó bằng cách sử dụng ý chí, nhưng nó không bao giờ là sáng tạo. Muốn sống, nở hoa trong tốt lành, phải có hòa bình, không phải hòa bình thuộc kinh tế, hòa bình giữa hai chiến tranh, hòa bình của những người chính trị đang thương thuyết những hiệp định, hòa bình mà những nhà thờ nói hay sự giảng đạo của tôn giáo có tổ chức, nhưng hòa bình mà người ta đã tự khám phá cho chính mình. Chỉ trong hòa bình người ta mới có thể nở hoa, tăng trưởng, là, và vận hành. Nó không thể hiện diện khi có bất kỳ loại xung đột nào, dù có ý thức hay không ý thức.

Liệu có thể sống một cuộc sống không xung đột trong thế giới hiện đại, với tất cả những áp lực, đấu tranh, căng thẳng, và những ảnh hưởng trong cấu trúc xã hội? Đó là đang sống thực sự, bản thể của một cái trí đang tìm hiểu một cách nghiêm túc. Vấn đề liệu có Thượng đế, liệu có sự thật, liệu có vẻ đẹp chỉ có thể hiện diện khi điều này được thiết lập, khi cái trí không còn trong xung đột.

Người hỏi: Làm thế nào người ta có thể tránh xung đột này?

Krishnamurti: Bạn không thể tránh xung đột. Bạn phải hiểu rõ bản chất của nó. Xung đột là một trong những sự việc khó khăn nhất để hiểu rõ. Chúng ta đã cố gắng tránh xung đột, vì vậy chúng ta nương nhờ nhậu nhẹt, tình dục, nhà thờ, tôn giáo có tổ chức, những hoạt động xã hội, vui chơi hời hợt – mọi hình thức của tẩu thoát. Chúng ta đã cố gắng tránh xung đột, nhưng chúng ta đã không thể. Chính sự lẩn tránh xung đột là góp phần vào xung đột.

Người hỏi: Ông có thể trình bày điều gì đó về bản chất của xung đột?

Krishnamurti: Chúng ta sẽ tìm hiểu điều đó. Trước hết chúng ta hãy thấy sự cần thiết cơ bản, chủ yếu của tự do và hòa bình. Chúng ta vẫn chưa biết nó có nghĩa gì. Chúng ta có thể thấy, có lẽ thuộc trí năng, sự cần thiết của một cái trí, một
tâm hồn, toàn cấu trúc của một con người không có xung đột, bởi vì lúc đó có hòa bình. Hòa bình đó thực sự là một hình thức của cư xử đạo đức, bởi vì một cái trí không hòa bình không thể cư xử, không thể có sự liên hệ đúng đắn; và sự liên hệ đúng đắn là cách cư xử, đạo đức, những luân lý, mọi chuyện của nó.

Nếu cả hai chúng ta hiểu rõ sự cần thiết của kết thúc xung đột – hiểu rõ nó thậm chí bằng từ ngữ, trong khoảnh khắc – vậy thì chúng ta có thể tiến tới; vậy thì chúng ta có thể bắt đầu tìm hiểu xung đột là gì, tại sao nó hiện diện, và liệu có thể kết thúc nó bằng cách đòi hỏi một nhân tố được gọi là ý chí. Chúng ta hãy bắt đầu chầm chậm. Nó là một chủ đề quan trọng; chúng ta không thể trình bày xong trong một buổi chiều. Xung đột là gì, cả bên trong lẫn bên ngoài? Ở bên ngoài chúng ta có thể thấy chiến tranh là kết quả của những quốc tịch, những áp lực kinh tế, những thành kiến cá thể và tôn giáo. Đã có những chiến tranh tôn giáo suốt lịch sử của thế giới. Có lẽ Phật giáo đã không góp phần vào chiến tranh, mặc dù mới đây những thầy tu Phật giáo đã tự thiêu, nhưng điều đó hoàn toàn ngược lại giáo lý. Họ được dạy bảo không bao giờ xen vào chính trị, nhưng chính trị là uy quyền mới; nó cung cấp sự nhiễm độc của chủ nghĩa quốc gia. Vậy thì bạn có thể thấy những nhân tố đóng góp phía bên ngoài của chiến tranh, những học thuyết, chúng ta không phải tìm hiểu điều đó.

Tiếp theo có xung đột bên trong, mà còn phức tạp hơn nhiều. Tại sao lại có xung đột trong chúng ta? Chúng ta đang tìm hiểu; chúng ta không đang nói rằng chúng ta nên hay không nên có xung đột. Chúng ta đang tìm hiểu nó; và muốn thực hiện điều đó chúng ta phải rất rõ ràng trong suy nghĩ của chúng ta, bén nhạy và tỉnh táo cực độ trong quan sát toàn cấu trúc và ý nghĩa của xung đột. Tại sao có xung đột? Chúng ta có ý gì qua từ ngữ đấu tranh đó? Chúng ta đang tìm hiểu ý nghĩa của từ ngữ, không phải điều gì tạo ra xung đột. Khi nào chúng ta ý thức được từ ngữ này, sự kiện này? Chỉ khi nào có đau khổ, một mâu thuẫn, sự theo đuổi của vui thú và sự phủ nhận của nó. Tôi ý thức được xung đột chỉ khi nào hình thức vui thú của tôi trong thành tựu, trong tham vọng thuộc vô số dạng, bị cản trở. Khi vui thú của tham vọng bị tuyệt vọng, lúc đó tôi ý thức được xung đột, nhưng chừng nào vui thú đó còn tiếp tục không bị cản trở, tôi không có ý thức của xung đột gì cả. Có vui thú trong tuân phục. Tôi muốn tuân phục vào xã hội bởi vì nó bù đắp cho tôi; nó cho tôi lợi lộc. Cho an toàn, cho một phương tiện kiếm sống, trở nên nổi tiếng, được công nhận, là ai đó trong xã hội, tôi phải tuân phục vào sự chuẩn mực, vào khuôn mẫu được thiết lập bởi xã hội. Chừng nào tôi còn đang tuân phục vào nó tuyệt đối, mà là một vui thú vô cùng, không có xung đột; nhưng có xung đột khoảnh khắc có một xao lãng khỏi sự tuân phục đó.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/04/2016(Xem: 35303)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
04/03/2016(Xem: 16735)
Trong thời gian làm việc tại Thư viện Thành hội Phật giáo đặt tại chùa Vĩnh Nghiêm, quận 3, tôi gặp được cuốn Tôn Giáo Học So Sánh của Pháp sư Thánh Nghiêm biên soạn. Do muốn tìm hiểu về các tôn giáo trên thế giới đã lâu mà vẫn chưa tìm ra tài liệu, nay gặp được cuốn sách này tôi rất toại ý.
04/03/2016(Xem: 13471)
Đọc sách là niềm vui của tôi từ thời còn đi học cho đến nay, chưa bao giờ ngơi nghỉ. Nếu sách hay, tôi chỉ cần đọc trong một hay hai ngày là xong một quyển sách 500 đến 600 trang. Nếu sách khó, cần phải nhiều thời gian hơn thì mỗi lần tôi đọc một ít. Còn thế nào là sách dở? xin trả lời ngắn gọn là: Sách ấy không hợp với năng khiếu của mình. Dĩ nhiên khi một người viết sách, họ phải đem cái hay nhất, cái đặc biệt nhất của mình để giới thiệu đến các độc giả khắp nơi, cho nên không thể nói là dở được. Cuối cùng thì dở hay hay tùy theo đối tượng cho cả người viết lẫn người đọc, là tác giả muốn gì và độc giả muốn học hỏi được gì nơi tác phẩm ấy. Tôi đọc Đại Tạng Kinh có ngày đến 200 trang nhưng vẫn không thấy chán, mặc dầu chỉ có chữ và chữ, chứ không có một hình ảnh nào phụ họa đi kèm theo cả. Nhiều khi nhìn thấy trời tối mà lo cho những trang Kinh còn lỡ dở chưa đọc xong, phải vội gấp Kinh lại, đúng là một điều đáng tiếc. Vì biết đâu ngày mai đọc tiếp sẽ không còn những đoạn văn hay tiếp
21/02/2016(Xem: 6701)
Dưới đây là phần chuyển ngữ bài thuyết trình của bà Gabriela Frey với chủ đề "Phụ nữ và Phật giáo", trước cử tọa của tổ chức Ki-tô giáo FHEDLES (Femmes et Hommes, Égalité, Droits et Libertés, dans les Églises et la Société/Nữ và Nam giới, Công bằng, Luật pháp, Tự do, trong Nhà thờ và ngoài Xã hội). Buổi thuyết trình diễn ra ngày 5 tháng 12 năm 2013, và sau đó đã được ghi chép lại và phổ biến trên nhiều trang mạng, trong số này có trang mạng của Tổ chức FHEDLES trên đây và Hiệp hội Sakyadhita Quốc Tế (Sakyadhita International Association of Buddhist Women/Hiệp hội Phụ nữ Phật giáo trên thế giới).
26/01/2016(Xem: 13837)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
09/12/2015(Xem: 8137)
Theo đa số các nhà nghiên cứu, thực trạng nóng lên toàn cầu (global warming) hoặc biến đổi khí hậu toàn cầu (global climate change) là có thật và ngày càng gia tăng một cách trầm trọng. Nguyên nhân chính là sự gia tăng quá nhanh trong việc thải khí cạc-bon đi-ô-xít (carbon dioxide) trong vòng 30 năm qua do đốt nhiên liệu hóa thạch, fossil fuels (Cox, P. M., et al., 2000), cũng như những hoá chất khác không phải do hoá học hữu cơ (Hansen, J., et al., 2000), và vì nhu cầu sinh hoạt của con người từ sự nhả khói và khí độc của các hãng xưởng công nghệ lớn nhỏ, xe ô-tô cho đến nạn phá rừng, các trại chăn nuôi súc vật đến chất liệu phế thải của các nhà máy thuỷ điện, v.v...
26/09/2015(Xem: 7369)
Cây bạch đàn là cây cao và có cành lá xum xuê nhất khu vực này. Tiếng chim kêu hót vang lừng mỗi sáng là từ trên những cành cao của cây này. Xa hơn, ở đầu đường, có hai cây cau dừa (cây cọ — palm tree), cao hơn cây bạch đàn nhiều, nhưng chim không làm tổ trên ấy (không hiểu vì sao; có lẽ vì cây quá cao, hoặc ở đó có nhiều tranh chấp, hiểm nguy hơn). Nơi cây bạch đàn, có ít nhất vài tổ chim, khác loại. Đúng là “đất lành chim đậu.” Có lần nghe tiếng quạ kêu bất thường, tưởng là quạ đến đuổi phá các loài chim khác, nào ngờ quạ bị chim đuổi. Rõ ràng là hai con chim trắng, thân nhỏ, lại rượt đuổi mấy con quạ đen to gấp ba lần. Không chỉ đuổi khỏi cây bạch đàn, mà đuổi thật xa, tít trên không trung, nhào lộn ngoạn mục, đuổi khỏi khu vực, đuổi khuất tận dãy phố bên kia đường. Thế mới biết, quạ tuy thân to lớn, bộ dạng dữ dằn, tiếng kêu rùng rợn ma quái so với các loài chim hiền lành khác, mà khi lâm trận thì lại không có chút dũng khí hay tinh thần chiến đấu nào. Quạ chỉ giỏi tấn công nhữn
24/06/2015(Xem: 30645)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
18/06/2015(Xem: 15783)
Có khoảng năm trăm triệu Phật tử trên thế giới, đạo Phật được coi là tôn giáo lớn đứng thứ tư của hành tinh. Với hai tông phái chính: Theravada (Phật giáo Nguyên thủy) và Mahayana (Phật giáo Đại thừa) cùng nhiều môn phái khác, đạo Phật có một điểm chung là sự giác ngộ, là tinh thần được tự do. Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định đạo Phật là tôn giáo của hòa bình. Con đường của đạo Phật là quá trình nhận biết đau khổ, nguyên nhân khổ đau và kết thúc nó với đích cuối cùng là được giải thoát.
15/06/2015(Xem: 23389)
Yếu chỉ tu tập & hành đạo. Tác giả Thích Thái Hòa
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]