Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Giáo Và Cuộc Sống

19/02/201105:59(Xem: 13674)
Phật Giáo Và Cuộc Sống

PHẬTGIÁO VÀ CUỘC SỐNG
HT.ẤnThuận - Thích Hạnh Bình Việt dịch
NhàXuấtBản Phương Đông 2008
none
none
hanhbinh-phatgiaovacuocsong-cover

LỜI GIỚI THIỆU

PhậtGiáohiện hữu trên thế giannầy từ vô lượng kiếp và PhậtGiáo đã được hình thành bằng hìnhthức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu nàyvà nhẫn đến ngàn năm sau nữa, tinh thần vô trụ của PhậtGiáo vẫn còn sống mãi với những kiếp nhân sinh tiếp tụctrong dòng đời chuyển biến ấy.

Thượng Tọa Thích Hạnh Bình đang du học tại Đài Loan, trong thời gian qua Thầy đã cho xuấtbản được nhiều tác phẩm theo lối phiên dịch hay biên khảo và dịch phẩm "Phật Giáo và Cuộc Sống” của Ngài Ấn Thuận, một vị Đại Đạo Sư người Đài Loanbiên khảo, trước tác và những bài diễn giảng được tạo thành một tác phẩm bằng tiếng Hoa giá trị như thế, nay Thượng Tọa Thích Hạnh Bìnhđã chuyển dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ một cách thôngsuốt. Câu văn trong sáng dễ hiểu. Hầu như không còn lấncấn một từ ngữ Hán cổ nào cả, mà đã Việt hóa hoàntoàn. Đây là một việc làm rất đáng tán dươngvà nên trợ duyên; do vậy tôi đã đọc qua dịch phẩmnầy một cách cẩn trọng để viết lời giới thiệu quyểnsách nầy do lời yêu cầu của Thượng Tọa.

Đọc nội dung của sách, chúng ta sẽ thấy Ngài Ấn Thuận là một vị Đại Đạo Sư có cuộcđời trải dài trong suốt thế kỷ thứ 20 và kéo dài qua 5năm ở thế kỷ thứ 21. Với 100 năm ấy không biết bao nhiêulà vật đổi sao dời từ Trung Hoa qua Đài Loan; từ Đài Loanqua Mã Lai và nhiều nơi khác trên thế giới nữa. Nơi đâuNgài cũng thể hiện một tấm lòng cho Đạo, vì Đạo và vìmuốn xiển dương giáo lý Phật Đà cho mọi người con Phật và mong muốn mọi người phải sống thực trong giáo lý ấy qua giáo pháp của Đức Phật, chứ không phải chỉ riêng có vấn đề tín ngưỡng mà ngườiTrung Hoa sau nầy vẫn mãi lo cúng tế, ít chú ý đến phầngiáo nghĩa của Phật Đà.

TrướcNgài đã có Ngài Thái Hư Đại Sư qua cái nhìn về „nhơngian Phật Giáo“. Nghĩa là Đức Phật đã vì con người vàcuộc đời ở thế giới Ta Bà nầy mà xuất hiện, thì giáolý ấy, đầu tiên phải cho con người và vì con người; chứkhông phải vì một kẻ nào khác ngoài con người. Tinh thầnnầy cũng khế hợp với ba việc cách mạng của Ngài Thái Hư Đại Sư đã chủ trương. Đó là cách mạng giáo chế, cách mạng giáo sản và cách mạng Giáo Hội. Ngài ẤnThuận nghiên
cứu, phiên dịch, viết lách cũng đều dựa trên quan điểm Nhân Thừa Phật Giáo trướcrồi mới đến Bồ Tát Thừa và Phật Thừa. Dĩ nhiên là Ngàicũng rất công tâm để ghi nhận về giáo lý Tiểu Thừa trong những bước phát triển đầu tiên của Phật Giáo. Đồng thời Thiên Thừa hay ngay cả Ấn Độgiáo, Ky Tô giáo Ngài cũng đã điểm qua thật chính xác vàcẩn trọng của một nhà nghiên cứu.

Nghiên cứu giáo lý Phật Đà, Ngài đã không đứng trên quan niệm của triết học ĐôngPhương hay triết học Tây Phương để nghiên cứu, mà Ngài lấy giáo lý củaĐức Phật để nghiên tầm giáo lý ấy. Đây cũng là một nghiên cứu hay, không như những nhà nghiên cứu Phật Giáo khác đã làm như lâu nay là đứng từhọc thuyết nầy hay học thuyết kia để nhận xét về ĐạoPhật. Theo Ngài khi nghiên cứu Ngài đã đặt nặng về nềnmóng của giáo lý ấy có thích hợp với tinh thần của „tứpháp ấn“ không. Đó là: Vô thường, Khổ, Không và Vô Ngã.Đồng thời Ngài cũng đã dựa trên pháp nhơn duyên sanh để khảo cứu. Nếu một bài pháp, một bài giảng, một bài luận mà không được chứa đựng nội dung như thế thì Ngài cho rằng: Đó không phải là lời dạy của Đức Phật.

Ngàicó bảo rằng Ngài không có học Phật theo thứ lớp hay bằngcấp như ngày nay. Nhưng những gì Ngài đã để lại cho hậuthế ngày nay còn hơn là những bậc học giả cao thâm kháccủa nhân loại đang có mặt trên quả địa cầu nầy.

Ngài cũng không phải đứng trên tinh thần của giáo nghĩa Đại Thừa mà chê bai Tiểu Thừa.Lại cũng chẳng phải Ngài là người Hoa, chỉ ca tụng tamtạng kinh điển bằng chữ Hán. Ngài nghiên cứu cả Tạng kinh, Luật, Luận của Tây Tạng và Nam Truyền và Ngài cũng đã chẳng phải đứng trên lập trường tánhkhông theo tinh thần Trung Quán của Ngài Long Thọ mà chê bainhững bộ phái khác.

Đọc xong tác phẩm nầy tôi thấy Ngài cũng đã khiêm nhường giống như Ngài Huyền Trang ở đời Đường rằng: Quý Ngài chỉ lo việc phiên dịch trước tác, chứ không chủ trương phảidụng công để hành trì theo một Tông phái nào. Nhờ vậy mà đời sau khinhững người nghiên cứu về kinh truyền qua ngã Hán tạngchúng ta có được sự tra cứu một cách tự nhiên hơn.

Naydịch phẩm giá trị nầy đã đến tay quý vị là do công sứccủa Thượng Tọa Thích Hạnh Bình đã dày công phiên dịchcũng như khảo cứu; nên dịch phẩm nầy mới ra đời. Mongrằng những đóng góp tích cực như thế của chư tôn đứcViệt Nam hiện đang du học tại ngoại quốc, dịch từ các ngôn ngữ khác nhau ra Việt ngữ như thế nầy thì sớm muộn gì PhậtGiáo Việt Nam của chúng ta cũng sẽ có một gia tài văn hóa Phật Giáođồ sộ so với các nước Phật Giáo trên thế giới.

Dovậy tôi xin trang trọng giới thiệu dịch phẩm nầy đếnvới quý độc giả xa gần và mong rằng khi đọc sách quývị sẽ thâm nhập được giáo lý nhiều hơn.

ThíchNhư Điển
PhươngTrượng chùa Viên Giác

Hannover,Đức Quốc.

MùaXuân năm Đinh Hợi – 2007



Lời nói đầucủa người dịch

Hòa thượng Ấn Thuận (印順 1906~2005) sinhnăm 1906, tỉnh Triết Giang, Trung Quốc. Viên tịch năm 200 tại Tân Trúc, Taiwan, trụthế 100 tuổi đời, gồm 75 hạ lạp.

Ngàilà nhà nghiên cứu Phật học có uy tín trong giới học thuật,những tác phẩm của Ngài được các trường Đại học ở Taiwan xem như là tài liệu tham khảo chính cho ngành Phật học. Ngài có tư tưởngcanh tân Phật giáo, chịu ảnh hưởng tư tưởng của Đạisư Thái Hư (太虛大師). Nhưng quan điểm cải cách của Ngài
vớiĐạisư Thái Hư có điểm dị biệt. Ngài không rầm rộ vận động cải cách Phật giáo Như Thái Hư mà Ngài âm thầm đem hết thờigian còn lại của đời mình, chú tâm nghiên cứu Phậ tpháp.Kết quả, sau khi viên tịch (2005), Ngài đã để lại cho Phật giáo chúng ta nhiều công trình nghiên cứu có giá trị học thuật, như:《雜阿含經論會編》 “Tạp A hàm Kinh Luận Hội Biên” (3 tập),《原始佛教聖典之集成》 “Nguyên Thủy Phật Giáo Thánh Điển Chi Tập Thành”, 《說一切有部為主的論書與論師之研究》“Thuyết Nhất Thuyết Hữu Bộ Vi Chủ Đích Luận ThưDữ Luận Sư Chi Nghiên Cứu”, 《初期大乘佛教之起源與開發》“Sơ Kỳ Đại Thừa Phật Giáo Chi Khởi Nguyên Dữ Khai Triển”,《印度佛教思想史》“ẤnĐộ Phật Giáo Tư Tưởng Sử”, 《如來藏之研究》 “Như Lai Tạng Chi Nghiên Cứu” là những tác phẩmmang tính kinh điển, có giá trị học thuật cao, mỗi ý tưởngđược Ngài đề cập và thảo luận, đều có phần trích dẫn và chú thích điểm xuất xứ từ kinh điển, người đọc cóthể tra cứu, kiểm tra lại những gì mà Ngài đã đề cập.

Qua những tác phẩm này, cho chúng ta thấy, thái độ nghiên cứu của Ngài rất nghiêm túc, không đứng trên lập trường của bất cứ Tông Phái nào, không binh vực Đại thừa cũng không chê bai Tiểu thừa.Phật pháp như thế nào thì Ngài trình bày như thế ấy, không thêm cũng không bớt. Ngài không những thong thạo tư tưởng Phật giáo Đại thừa mà còn am tườngtư tưởng Phật giáo Nguyên thủy và Bộ Phái.

Ngoàinhững tác phẩm vừa đề cập, Ngài còn có bộ《華雨集》 “Hoa Vũ Tập” (5 quyển) và bộ 《妙 雲集》“DiệuVân Tập” (gồm 24 quyển). Thật ra, phần lớn bài viết của 2 bộ này, không phải hầu hết đích thân Ngài viết, mà là khi Ngài thuyết giảng hay nói chuyện,được các đệ tử ghi chép lại, sau đó viết thành lời. Những quan điểm tư tưởng được đề cập trong sách này rất trong sáng và mới mẻ,cần được học tập nghiên cứu và phát huy. Tuy nhiên, cómột vài vấn đề cần phải chú ý. Có một số bài, cáchtrình bày không được rõ rang sang sủa,, có lẽ người ghi lại không nắmhết ý tưởng của Ngài, đôi khi thêm ý tưởng của mình. Gặp những trường hợp này, tôi đành phải lược dịch hay dịch ý.

Tácphẩm “Đạo Phật và cuộc sống” mà độc giả đang cầm trên tay, là tuyển tập những bài viết của Hòa Thượng, được tríchdịch từ hai bộ sách vừa đề cập. Trong đó, phần nhiềuđược trích dịch từ quyển 《佛在人間》 “Phật ở nhân gian” (quyển thứ 14) trongbộ “Diệu Vân tập”. Phần còn lại trích dịch từ bộ“Hoa Vũ Tập”. Đây là những bài nói chuyện có nộidung tư tưởng rất hay, đáng cho chúng ta học tập. Cách lýgiải những vấn đề trong Phật học rất trong sáng, phù họp với thời đại chúng ta, nhất là quan điểm của giới trẻ hiệnnay. Người dịch cho rằng, nó rất cần thiết cho người Phậttử Việt nam chúng ta, dù ở trong nước hay ở nước ngoài,có thể nói nó là một ý kiến tích cực cho việc hoằng dươngPhật pháp trong thời hiện đại, lấy con người và xã hộicon người làm chủ đề chính cho cả hai việc tu và học.

Thật ra, người dịch chưa có ý định xuất bản quyển sách này, nhưng thấy rằng tác phẩm nghiên cứu Phật học bằngViệt ngữ còn khan hiếm, trong khi đó giới Phật tử người Việt chúng ta có nhu cầu tìm hiểu Phật pháp rất lớn, cho nên tôi tập họpnhững bài đã dịch của Hòa thượng biên tập thành sách, xuất bản nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu Tăng Ni và Phật tử.

Hyvọng với tập sách nhỏ này, độc giả sẽ gặt gái nhiềuđiều lợi ích từ những gợi ý của Hòa thượng. Bản dịchnày, tuy đã cố gắng sửa chữa chỗ sai sót, nhưng có lẽkhông làm sao tránh khỏi sự sai sót vô tình. Kính mong độcgiả lượng thứ và chỉ điểm, để lần tái bản tốt hơn.

Đầu xuân năm Đinh hợi, năm 2007

Kínhbút, Thích Hạnh Bình

Xemtiếp Nội Dung (PDF)

Source: thuvienhoasen

Ý kiến bạn đọc
21/12/201908:25
Khách
Luôn mong muốn tác giả viết nhiều hơn nửa
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/03/2016(Xem: 11600)
Đọc sách là niềm vui của tôi từ thời còn đi học cho đến nay, chưa bao giờ ngơi nghỉ. Nếu sách hay, tôi chỉ cần đọc trong một hay hai ngày là xong một quyển sách 500 đến 600 trang. Nếu sách khó, cần phải nhiều thời gian hơn thì mỗi lần tôi đọc một ít. Còn thế nào là sách dở? xin trả lời ngắn gọn là: Sách ấy không hợp với năng khiếu của mình. Dĩ nhiên khi một người viết sách, họ phải đem cái hay nhất, cái đặc biệt nhất của mình để giới thiệu đến các độc giả khắp nơi, cho nên không thể nói là dở được. Cuối cùng thì dở hay hay tùy theo đối tượng cho cả người viết lẫn người đọc, là tác giả muốn gì và độc giả muốn học hỏi được gì nơi tác phẩm ấy. Tôi đọc Đại Tạng Kinh có ngày đến 200 trang nhưng vẫn không thấy chán, mặc dầu chỉ có chữ và chữ, chứ không có một hình ảnh nào phụ họa đi kèm theo cả. Nhiều khi nhìn thấy trời tối mà lo cho những trang Kinh còn lỡ dở chưa đọc xong, phải vội gấp Kinh lại, đúng là một điều đáng tiếc. Vì biết đâu ngày mai đọc tiếp sẽ không còn những đoạn văn hay tiếp
21/02/2016(Xem: 5931)
Dưới đây là phần chuyển ngữ bài thuyết trình của bà Gabriela Frey với chủ đề "Phụ nữ và Phật giáo", trước cử tọa của tổ chức Ki-tô giáo FHEDLES (Femmes et Hommes, Égalité, Droits et Libertés, dans les Églises et la Société/Nữ và Nam giới, Công bằng, Luật pháp, Tự do, trong Nhà thờ và ngoài Xã hội). Buổi thuyết trình diễn ra ngày 5 tháng 12 năm 2013, và sau đó đã được ghi chép lại và phổ biến trên nhiều trang mạng, trong số này có trang mạng của Tổ chức FHEDLES trên đây và Hiệp hội Sakyadhita Quốc Tế (Sakyadhita International Association of Buddhist Women/Hiệp hội Phụ nữ Phật giáo trên thế giới).
26/01/2016(Xem: 12302)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
09/12/2015(Xem: 7249)
Theo đa số các nhà nghiên cứu, thực trạng nóng lên toàn cầu (global warming) hoặc biến đổi khí hậu toàn cầu (global climate change) là có thật và ngày càng gia tăng một cách trầm trọng. Nguyên nhân chính là sự gia tăng quá nhanh trong việc thải khí cạc-bon đi-ô-xít (carbon dioxide) trong vòng 30 năm qua do đốt nhiên liệu hóa thạch, fossil fuels (Cox, P. M., et al., 2000), cũng như những hoá chất khác không phải do hoá học hữu cơ (Hansen, J., et al., 2000), và vì nhu cầu sinh hoạt của con người từ sự nhả khói và khí độc của các hãng xưởng công nghệ lớn nhỏ, xe ô-tô cho đến nạn phá rừng, các trại chăn nuôi súc vật đến chất liệu phế thải của các nhà máy thuỷ điện, v.v...
26/09/2015(Xem: 6840)
Cây bạch đàn là cây cao và có cành lá xum xuê nhất khu vực này. Tiếng chim kêu hót vang lừng mỗi sáng là từ trên những cành cao của cây này. Xa hơn, ở đầu đường, có hai cây cau dừa (cây cọ — palm tree), cao hơn cây bạch đàn nhiều, nhưng chim không làm tổ trên ấy (không hiểu vì sao; có lẽ vì cây quá cao, hoặc ở đó có nhiều tranh chấp, hiểm nguy hơn). Nơi cây bạch đàn, có ít nhất vài tổ chim, khác loại. Đúng là “đất lành chim đậu.” Có lần nghe tiếng quạ kêu bất thường, tưởng là quạ đến đuổi phá các loài chim khác, nào ngờ quạ bị chim đuổi. Rõ ràng là hai con chim trắng, thân nhỏ, lại rượt đuổi mấy con quạ đen to gấp ba lần. Không chỉ đuổi khỏi cây bạch đàn, mà đuổi thật xa, tít trên không trung, nhào lộn ngoạn mục, đuổi khỏi khu vực, đuổi khuất tận dãy phố bên kia đường. Thế mới biết, quạ tuy thân to lớn, bộ dạng dữ dằn, tiếng kêu rùng rợn ma quái so với các loài chim hiền lành khác, mà khi lâm trận thì lại không có chút dũng khí hay tinh thần chiến đấu nào. Quạ chỉ giỏi tấn công nhữn
24/06/2015(Xem: 26905)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
18/06/2015(Xem: 14238)
Có khoảng năm trăm triệu Phật tử trên thế giới, đạo Phật được coi là tôn giáo lớn đứng thứ tư của hành tinh. Với hai tông phái chính: Theravada (Phật giáo Nguyên thủy) và Mahayana (Phật giáo Đại thừa) cùng nhiều môn phái khác, đạo Phật có một điểm chung là sự giác ngộ, là tinh thần được tự do. Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định đạo Phật là tôn giáo của hòa bình. Con đường của đạo Phật là quá trình nhận biết đau khổ, nguyên nhân khổ đau và kết thúc nó với đích cuối cùng là được giải thoát.
15/06/2015(Xem: 20122)
Yếu chỉ tu tập & hành đạo. Tác giả Thích Thái Hòa
15/05/2015(Xem: 22910)
Thể theo lời yêu cầu của các bạn Đạo, tôi chọn một số bài nói chuyện về Phật pháp của tôi tại Tổ Đình Từ Quang ở Montréal và một vài nghi thức tụng niệm để in thành cuốn sách này, với hy vọng phổ biến Phật pháp. Cuốn sách được hình thành trong dịp Tết Canh Thìn, nhưng phải đợi đến Tết Dương Lịch 2001 mới đánh máy xong. Trong thời gian chờ đợi này, tôi đã cẩn thận kiểm điểm lại nội dung từng bài, nhưng chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, những mong các bậc cao minh từ bi chỉ điểm cho. Montréal, Tết Dương lịch 2001 Hiển Mật, Đỗ Hữu Trạch
12/05/2015(Xem: 18635)
Video: Những Hiểu Lầm về Đạo Phật
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567