Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuổi trẻ thời nay trước cửa ngõ văn hóa Phật giáo

01/08/201119:29(Xem: 4076)
Tuổi trẻ thời nay trước cửa ngõ văn hóa Phật giáo

TUỔI TRẺ THỜI NAY
TRƯỚC CỬA NGÕ VĂN HÓA PHẬT GIÁO

Trần Kiêm Đoàn

Tuổi trẻ thế hệ Tiền Chiến (trước 1945) đi ghe chèo, xe ngựa. Tuổi trẻ thế hệ 1950 đi ghe máy đuôi tôm, xe đạp. Tuổi trẻ thời 1960 đi đò máy dầu cặn, xe mô tô 2 bánh. Tuổi trẻ thời 1980 đi tàu thủy, ô tô. Tuổi trẻ thời nay đi tàu cao tốc, máy bay. Đấy là một bức tranh khá sống động minh họa cho tốc độ chuyển biến của quá trình phát triển khoa học kỹ thuật. Trong đó, tuổi trẻ là lực lượng nhiệt tình và năng nỗ nhất.

Tuổi trẻ Việt Nam trong vài thế kỷ trước đã lớn lên cùng nhịp độ với thiên nhiên, trưởng thành chậm và già đi rất sớm như cụ Nguyễn Công Trứ xếp loại: “Mười lăm trẻ, năm mươi già không kể”! Tuổi trẻ ngày nay, nói chung, đã khôn lớn và trưởng thành rất sớm theo môi trường sinh hóa, tư tưởng, khoa học kỹ thuật và tâm linh của xã hội chuyển biến và tiến bộ ngày càng nhanh. Lớp người trẻ tuổi phát triển tri thức sớm là một hiện tượng tích cực mà ngày xưa các cụ nhà ta gọi là “khôn trước tuổi”.

Đã từng có một thời, nhất là 100 năm dưới sự đô hộ của Pháp, thế lực cầm quyền thực dân đã xông xáo chủ trương lấy văn hóa phương Tây để thay thế cho văn hóa Việt Nam truyền thống. Văn hóa Phật giáo đồng hành và đồng điệu với văn hóa Dân tộc, nên Phật giáo Việt Nam cũng đã bị vùi dập không ngừng bởi chủ trương tha hóa để chinh phục và chia để trị của chủ trương thực dân đô hộ phương Tây. Nếp sinh hoạt chùa chiền và tự viện bị biến tướng thành thế giới hương khói của người già. Đạo Phật bị xem là sự ru ngủ của lớp tuổi trẻ sớm chán đời và lười biếng. Sinh hoạt Phật giáo bị thu nhỏ, ẩn tàng dưới bóng cây đa và mái cổ rêu phong. Những thiền tăng có khuynh hướng muốn vươn lên cải tổ và chấn hưng Phật giáo thì bị thế lực Tây và Ta theo Tây chụp ngay cái mũ “Giặc Thầy Chùa” để ra tay đàn áp và vùi dập. Thiền môn vắng bóng tuổi trẻ.

Đạo Phật Việt Nam lắng sâu vào lòng dân tộc : Có những hoàn cảnh đạo Phật kết hợp và thay thế cho đời sống tâm linh dân gian như trong các lễ nghi quan hôn tang tế ; có những lúc đạo Phật đồng hành và che chắn cho tinh thần hay cao trào hành động yêu nước chống ngoại xâm. Suốt trăm năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, đạo Phật ẩn nhẫn trong chốn chùa chiền, tu viện và bị giới hạn trong một quy chế hoạt động của một hội đoàn quần chúng đời thường.

Rất khác với Trung Hoa, nơi mà Phật giáo chỉ tiếp cận với tầng lớp sĩ phu, trí thức; hay Nhật Bản, nơi mà Phật giáo nằm trong tay hàng quý tộc và võ sĩ đạo, đạo Phật Việt Nam đi vào mạch sống của dân tộc Việt Nam một cách tự nhiên bằng ý niệm tâm linh rất gần gũi nhưng cũng rất cao xa như “Trời Đất Phật Thánh”. Làng nào cũng có một ngôi chùa làng trong bộ “tứ thiêng”: Đình, chùa, miếu, vũ cùng với chỗ dựa tâm linh “cầu nguyện ơn trên”, không cần phải rạch ròi phân biệt. Càng về sau, khi nhu cầu tu dưỡng và tính tổ chức càng cao thì hình thức tổ chức hội đoàn xuất hiện.

Khởi đầu thập niên 1930, noi gương Miến Điện, Tích Lan, Nhật Bản và nhất là Trung Hoa với Thái Hư Đại Sư làm chủ xướng, một phong trào chấn hưng Phật giáo đã hình thành ở Việt Nam. Có thể nói tinh thần cốt lõi trong công cuộc chấn hưng Phật giáo là đem đạo vào đời. Đó là một quá trình hiện đại hóa để khởi động và phát huy vai trò tích cực của đạo Phật, biến tâm linh thuần lý thành tâm linh ứng dụng. Đặc biệt là khuynh hướng đưa tuổi trẻ vào đạo Phật.

Từ 1932, những nhóm thiếu niên, thiếu nữ bắt đầu có mặt dưới những tên gọi dành cho trẻ con theo người lớn đến chùa là những ban Đồng Ấu.

Trong công cuộc chấn hưng Phật giáo Việt Nam thời kỳ 1930, một nhân vật nổi bật tại Trung Kỳ là bác sĩ Lê Đình Thám, pháp danh Tâm Minh. Có thể nói rằng, cư sĩ Tâm Minh đã cùng với các danh tăng, trí thức Phật giáo, giới cư sĩ và đại chúng Phật tử có khuynh hướng cấp tiến đương thời đã vực tuổi trẻ dậy. Vực dậy từ bóng mờ bị che khuất sau lưng thế giới người lớn. Các em đã được thế hệ đàn anh thương quý đón mời để dẫn tới trước cửa ngõ Văn hóa Phật giáo. Tuổi trẻ Việt Nam lần đầu được tiếp cận đạo Phật với tư cách của những người trẻ tuổi có tri thức, nhân cách và vị thế riêng chứ không phải là những “cụ già thu nhỏ” lon ton níu áo chạy theo những cụ già đạo hữu đã thành cây đại thụ trong Vườn Nhà Lam như bao nhiêu năm về trước.

Đây là lần đầu tiên, các em thiếu nhi không phải là những người lớn thu nhỏ mà có hẳn một vai trò được công nhận trong sinh hoạt Phật giáo Việt Nam thời cận đại. Đó là sự ra đời của Gia Đình Phật Hoá Phổ – Tiền thân của Gia Đình Phật Tử Việt Nam – vào năm 1930 với sự tham gia của một thế hệ đàn anh, đàn chị là những nhân vật thành danh, có đầy đủ năng lực và uy tín trong nhiều lĩnh vực, đảm trách vai trò huynh trưởng lãnh đạo, tổ chức và giáo dục.

Năm 1940, đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục, được gọi theo tiếng Pháp là “Commission d’Études Bouddhiques et de Perfectionnement Moral” được thành lập tại Huế. Ngày Phật Đản 1944, một đại hội thanh niên được tổ chức tại đồi Quảng Tế, Huế, khai sinh Gia Đình Phật Hóa Phổ. Đó là tiền thân của Gia Đình Phật Tử sau nầy.

Nhờ viễn kiến với tầm nhìn xa, thấy rộng của Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám và các trí thức, văn nghệ sĩ Phật giáo nổi tiếng thời bấy giờ mà tinh thần kế thừa của thế hệ trẻ được nuôi dưỡng và phát huy trong khung cảnh cửa thiền. Những tên tuổi đã thành danh như Tráng Thông, Đinh Văn Nam, Võ Đình Cường, Phạm Hữu Bình, Lê Bối, Nguyễn Hữu Ba, Phạm Đăng Trí, Lê Ngọc Thừa, Đinh Văn Vinh... đã cùng nhau năng nỗ đóng góp tài năng và tấm lòng cho thế hệ trẻ.

Chủ trương nổi bật nhất của công cuộc chấn hưng dành cho tuổi trẻ là khai phóng và kế thừa. Khai phóng là sự khai thông, mở trói, đối thoại, bình đẳng của mọi khuynh hướng thay đổi theo chiều hướng tích cực của trào lưu tự do dân chủ trên toàn thế giới như cải tiến, chấn hưng. Đó là một tiến trình cải cách và ứng dụng nhằm làm rõ thêm, đẹp thêm, phong phú thêm và hữu dụng thêm từ một thực tại đang bị thoái trào hay đứng yên trong tù đọng và xuống cấp trong lãng quên. Khai phóng là phá bỏ những rào cản giới hạn, nhất quán và quyết đoán mở ra những con đường tươi mới, phát huy những khả năng và tiềm năng tổng hợp để vận dụng vào nỗ lực phá bỏ hiện trạng tiêu cực và xây dựng lại theo hướng tiến tích cực. Nói tóm lại, khai phóng là tiền đề của tự do dân chủ, của cánh cửa thoáng rộng để hiểu và bước vào cửa ngõ của Văn Hóa Phật Giáo.

Việt Nam với một số dân trên 85 triệu người thuộc vào khối những nước có “dân trẻ”. Theo thống kê năm 2009 thì 65% dân Việt trong nước thuộc về thế hệ trẻ. “Tuổi trẻ” thường được định nghĩa là lớp người ở giai đoạn đầu lứa tuổi trung niên (30-35) hay trẻ hơn.

Với tri thức và tâm lý tuổi trẻ Việt Nam hiện nay, cuộc Chiến Tranh Việt Nam đã đi vào lịch sử. Đấy có thể là nguồn sử liệu phong phú để tham khảo, nghiên cứu, nhận thức hay trân trọng chứ không còn là chất liệu sống vẫn còn tươi mới, vẫn hằng ngày rần rật chạy trong máu thịt như thế hệ đàn anh.

Trong lĩnh vực tâm linh và tôn giáo, tuổi trẻ Việt Nam và thế giới – nếu không bị hệ lụy trói buộc bởi truyền thống kế thừa tôn giáo nặng nề của gia đình – thường có cái nhìn dò hỏi, khai phá và độc lập của chính mình trên căn bản kiến thức hiện đại và sự suy niệm về tâm linh tự do, phóng khoáng. Không hiểu tuổi trẻ Việt Nam sẽ có bao nhiêu người đồng ý với một người tuổi trẻ Hoa Kỳ, tổ tiên gốc Ái Nhĩ Lan (Ireland), có tôn giáo gia đình là Tin Lành Thệ Phản (Protestant). Đó là Sam Shaw, một thanh niên 28 tuổi, sinh ra và lớn lên tại Mỹ, tốt nghiệp đại học Princeton. Sam Shaw viết trong Nhật Ký Hành Hương (Diary of a Pilgrimage. Batam; NY. 2009.): “Tôi là một người Ki Tô giáo ‘vô thần’ vì tôi tin rằng, Thượng Đế, đấng Jesus Christ chẳng phải là những con người giống như loài người nhỏ bé đang chen chúc trên hành tinh nầy. Những vị cao cả ấy là Sự Thật hay là Người Nói Lên Sự Thật. Các Ngài không phải là thần linh trao truyền phép lạ xa vời và đầy ảo tưởng. Các Ngài là những tia sáng rực rỡ, tỏa sáng tận cùng trong đầu óc tôi, trong trái tim tôi...” (NKHH. Tr. 261)

Tuổi trẻ nhìn về tôn giáo sao mà đẹp lạ lùng. Một câu La Tinh đầy minh triết khắc trên một đại giáo đường lừng danh thế giới như Notre Dame ở Paris chắc gì đã đánh động được lòng người bằng một dòng chữ đơn sơ dán sau kính xe của một người trẻ tuổi phương Tây, như: “I am lonely, Jesus is my best friend.” (Tôi cô đơn, Đức Giê Su là người bạn chí thiết nhất của tôi.)Tôn giáo không còn là thần linh và ma quỷ. Tôn giáo chính là phần tinh hoa cao cả và siêu tuyệt nhất từ thời vô thủy và đến hôm nay vẫn còn hiện hữu trong tâm thức sâu kín của mỗi con người.

Với một tinh thần “phá chấp” như Sam Shaw, vô hình chung, tuổi trẻ đang đứng trước chân trời thoáng rộng của văn hóa Phật giáo. Đó là một thế giới mênh mông, trùng điệp những cánh rừng thiền bạt ngàn không có rào khóa hay giới hạn nhỏ bé của những khái niệm bị xé nhỏ, tách rời hiện thực như: Duy tâm, duy vật; triềt lý, giáo lý; tín điều, tư tưởng; khoa học, tâm linh... Trong một tổng thể “hợp duyên” chẳng có một sự lý hay sự việc nào chỉ do một nguyên nhân hay điều kiện duy nhất mà thành cả.

Giáo điều, nhồi sọ, áp đặt lối nhìn và cách nghĩ không thích hợp... là khuynh hướng truyền thống của tôn giáo đối với tuổi trẻ. Hậu quả không tránh khỏi là lớp tuổi trẻ “ngoan đạo” sẽ bị mụ mẫm đầu óc và niềm tin tôn giáo sẽ tiến tới gần hay bị đồng hóa với mê tín dị đoan. Lớp trẻ không bị trói buộc sẽ quay lưng với tôn giáo vì không tìm thấy ở đó sự thông thoáng, hồn nhiên, tươi mát đáp ứng cho nhu cầu tâm linh.

Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mà đặc biệt là sự tiến bộ nhảy vọt của ngành thông tin vi tính. Môi trường truyền thông đại chúng đã rút ngắn khoảng cách không gian và thời gian giữa mỗi cá nhân và môi trường sống toàn cầu. Sinh hoạt tôn giáo cũng theo sự biến chuyển đó mà thay đổi. Tính cách huyền nhiệm, linh thiêng, kỳ bí của tôn giáo giảm dần theo sự phát triển của mạng lưới truyền thông. Ngày xưa, lời tuyên bố của hàng giáo phẩm cao cấp trong tôn giáo thường mang tính cách giáo chỉ, pháp lệnh đối với tín đồ trong tôn giáo đó. Nhưng ngày nay, sự “giao khoán” đức tin không có lý do tồn tại. Nhất là đối với đạo Phật thì chính đức Phật đã dạy rằng, cần phải hiểu trước đã mới tin. Tin bừa là làm thui chột chính mình và phỉ báng người đưa tin.

Mạng lưới thông tin, vi tính thời nay có tác động tinh thần mạnh mẽ đối với tuổi trẻ vượt ra ngoài dự ước của thế hệ đàn anh. Thế giới có 7 tỷ người mà dân cư mạng lưới internet chiếm hơn 6 tỉ; trong khi tín đồ của 20 tôn giáo (có từ 1 triệu tín đồ trở lên) cộng lại thì chỉ mới 4 tỷ. Đa số tuổi trẻ trên thế giới thực hành “công phu” với mạng lưới internet thường xuyên hơn là tới các nơi thờ phụng của tôn giáo. Tiếng nói của truyền thông có sức thông tin, bình luận, thuyết phục và lôi kéo tuổi trẻ trực tiếp và mạnh mẽ hơn là hấp lực của tôn giáo. Đây vừa là một cơ hội nhưng đồng thời vừa là một hệ lụy cho tuổi trẻ vì mạng lưới toàn cầu có khả năng là một đống rác vĩ đại, mặc dầu cũng có vô số vàng bạc, minh châu. Nhưng làm sao để tìm được của quý mà khỏi bị vấy bẩn vẫn còn là một nan đề cho tuổi trẻ thời nay.

Trong các tôn giáo lớn của thế giới ngày nay, chỉ có duy nhất đạo Phật là có tín đồ bình đẳng với giáo chủ. Nhà Phật mở ra một chân trời tự do khi tín lý nhà Phật xác định mọi sinh thể đều có sẵn Chân tánh, Phật tánh trong mình nên mọi chúng sinh đều có khả năng thành một vị Phật của tương lai.

Xu thế phù hợp với luận lý và chức năng của thời đại thuộc mọi lĩnh vực là có gieo trồng mới có thu hoạch; có đầu tư mới có lợi nhuận. Đạo Phật đã đưa ra một bản vẽ rõ ràng của công trình “đầu tư” ấy. Đó là TU. Tu không phải là van lạy cầu xin tha lực mà phải tự mình khổ luyện mới thành. Như sự Khổ là một hệ lụy tất nhiên của đời sống, nhưng không có thuốc “diệt khổ” nào ngoài chính mình biết nương theo Phật pháp làm phương tiện để tự cứu lấy mình cho bớt khổ. Phật giáo trong cũng như ngoài nước quan tâm tham dự những khóa tu ngày càng đông. Đặc biệt là những khóa tu mùa Hè dành riêng cho tuổi trẻ đang diễn ra khắp nơi. Như khóa Tu Mùa Hè đợt 1 của chùa Hoằng Pháp đã quy tụ tới 2200 thiếu niên nam nữ nô nức về tham dự. Tại những thành phố lớn, đông người Việt ở Hải ngoại, các trung tâm văn hóa Phật giáo cũng có những khóa tu đặc biệt dành cho tuổi trẻ Việt Nam và nước ngoài. Chùa Tam Bảo, thành phố Baton Rouge ở miền Đông nước Mỹ cũng có khóa tu mùa Hè bằng Anh Ngữ dành riêng cho tuổi trẻ.

Nói đến tuổi trẻ là nói đến một thế giới đầy linh hoạt, biến chuyển rất nhanh và luôn luôn tươi mới vì đang ở trong bình minh của cuộc đời. Đạo Phật cũng chỉ rõ sự sống là một dòng biến dịch không ngừng từ vô thủy đến vô chung. Tất cả đều ở trong vòng quay biến hiện qua từng sát na sinh diệt. Bởi vậy, tuổi trẻ và đạo Phật gặp nhau bằng sự tương ứng tự nhiên chứ không qua ngưỡng cửa của lý luận và rao giảng.

Thử lắng nghe một thanh niên 18 tuổi nói lên cảm tưởng của chính mình với bằng hữu cùng trang lứa về một khóa tu: “Tớ là Nguyễn Minh Luân, 18 tuổi. Hè này, tớ đã có một quyết định khiến cả gia đình lẫn bạn bè đều hết hồn: Đi tu! Không phải đi tu là cạo đầu xuất gia lên chùa ở luôn mà tớ đăng ký ‘Khóa tu mùa Hè’, một chương trình học đạo đặc biệt chỉ dành cho thanh thiếu niên do chùa Hoằng Pháp tổ chức. Có 2200 teen quyết tâm đi tu (...) Cuộc sống hiện tại với những giá trị vật chất đầy đủ khiến cho tuổi teen chúng mình thích chạy theo những xu hướng mới, thích tự khẳng định mình. Nhưng nếu bạn cùng chúng tớ thử một buổi tối ngồi thiền dưới những ngọn nến lấp lánh và cầu nguyện, bạn sẽ lắng nghe được ước mơ và những điều tốt đẹp nhất từ chính mình đấy!”

Tuổi trẻ thế hệ Nguyễn Minh Luân không còn đứng trước cửa ngõ mà đã mở cửa bước vào thế giới văn hóa Phật giáo rồi đó.

Trần Kiêm Đoàn, MSW; Ph.D
Đại học LPU, CSUS, CRC (Mỹ)
Cựu Liên đoàn trưởng GĐPT Liễu Hạ (62-67)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2017(Xem: 120309)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 15514)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
20/03/2017(Xem: 10870)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
22/12/2016(Xem: 24313)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13183)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
30/04/2016(Xem: 15464)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 31228)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
26/01/2016(Xem: 12066)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
26/09/2015(Xem: 6738)
Cây bạch đàn là cây cao và có cành lá xum xuê nhất khu vực này. Tiếng chim kêu hót vang lừng mỗi sáng là từ trên những cành cao của cây này. Xa hơn, ở đầu đường, có hai cây cau dừa (cây cọ — palm tree), cao hơn cây bạch đàn nhiều, nhưng chim không làm tổ trên ấy (không hiểu vì sao; có lẽ vì cây quá cao, hoặc ở đó có nhiều tranh chấp, hiểm nguy hơn). Nơi cây bạch đàn, có ít nhất vài tổ chim, khác loại. Đúng là “đất lành chim đậu.” Có lần nghe tiếng quạ kêu bất thường, tưởng là quạ đến đuổi phá các loài chim khác, nào ngờ quạ bị chim đuổi. Rõ ràng là hai con chim trắng, thân nhỏ, lại rượt đuổi mấy con quạ đen to gấp ba lần. Không chỉ đuổi khỏi cây bạch đàn, mà đuổi thật xa, tít trên không trung, nhào lộn ngoạn mục, đuổi khỏi khu vực, đuổi khuất tận dãy phố bên kia đường. Thế mới biết, quạ tuy thân to lớn, bộ dạng dữ dằn, tiếng kêu rùng rợn ma quái so với các loài chim hiền lành khác, mà khi lâm trận thì lại không có chút dũng khí hay tinh thần chiến đấu nào. Quạ chỉ giỏi tấn công nhữn
24/06/2015(Xem: 26620)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567