Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuổi trẻ thời nay trước cửa ngõ văn hóa Phật giáo

01/08/201119:29(Xem: 4105)
Tuổi trẻ thời nay trước cửa ngõ văn hóa Phật giáo

TUỔI TRẺ THỜI NAY
TRƯỚC CỬA NGÕ VĂN HÓA PHẬT GIÁO

Trần Kiêm Đoàn

Tuổi trẻ thế hệ Tiền Chiến (trước 1945) đi ghe chèo, xe ngựa. Tuổi trẻ thế hệ 1950 đi ghe máy đuôi tôm, xe đạp. Tuổi trẻ thời 1960 đi đò máy dầu cặn, xe mô tô 2 bánh. Tuổi trẻ thời 1980 đi tàu thủy, ô tô. Tuổi trẻ thời nay đi tàu cao tốc, máy bay. Đấy là một bức tranh khá sống động minh họa cho tốc độ chuyển biến của quá trình phát triển khoa học kỹ thuật. Trong đó, tuổi trẻ là lực lượng nhiệt tình và năng nỗ nhất.

Tuổi trẻ Việt Nam trong vài thế kỷ trước đã lớn lên cùng nhịp độ với thiên nhiên, trưởng thành chậm và già đi rất sớm như cụ Nguyễn Công Trứ xếp loại: “Mười lăm trẻ, năm mươi già không kể”! Tuổi trẻ ngày nay, nói chung, đã khôn lớn và trưởng thành rất sớm theo môi trường sinh hóa, tư tưởng, khoa học kỹ thuật và tâm linh của xã hội chuyển biến và tiến bộ ngày càng nhanh. Lớp người trẻ tuổi phát triển tri thức sớm là một hiện tượng tích cực mà ngày xưa các cụ nhà ta gọi là “khôn trước tuổi”.

Đã từng có một thời, nhất là 100 năm dưới sự đô hộ của Pháp, thế lực cầm quyền thực dân đã xông xáo chủ trương lấy văn hóa phương Tây để thay thế cho văn hóa Việt Nam truyền thống. Văn hóa Phật giáo đồng hành và đồng điệu với văn hóa Dân tộc, nên Phật giáo Việt Nam cũng đã bị vùi dập không ngừng bởi chủ trương tha hóa để chinh phục và chia để trị của chủ trương thực dân đô hộ phương Tây. Nếp sinh hoạt chùa chiền và tự viện bị biến tướng thành thế giới hương khói của người già. Đạo Phật bị xem là sự ru ngủ của lớp tuổi trẻ sớm chán đời và lười biếng. Sinh hoạt Phật giáo bị thu nhỏ, ẩn tàng dưới bóng cây đa và mái cổ rêu phong. Những thiền tăng có khuynh hướng muốn vươn lên cải tổ và chấn hưng Phật giáo thì bị thế lực Tây và Ta theo Tây chụp ngay cái mũ “Giặc Thầy Chùa” để ra tay đàn áp và vùi dập. Thiền môn vắng bóng tuổi trẻ.

Đạo Phật Việt Nam lắng sâu vào lòng dân tộc : Có những hoàn cảnh đạo Phật kết hợp và thay thế cho đời sống tâm linh dân gian như trong các lễ nghi quan hôn tang tế ; có những lúc đạo Phật đồng hành và che chắn cho tinh thần hay cao trào hành động yêu nước chống ngoại xâm. Suốt trăm năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, đạo Phật ẩn nhẫn trong chốn chùa chiền, tu viện và bị giới hạn trong một quy chế hoạt động của một hội đoàn quần chúng đời thường.

Rất khác với Trung Hoa, nơi mà Phật giáo chỉ tiếp cận với tầng lớp sĩ phu, trí thức; hay Nhật Bản, nơi mà Phật giáo nằm trong tay hàng quý tộc và võ sĩ đạo, đạo Phật Việt Nam đi vào mạch sống của dân tộc Việt Nam một cách tự nhiên bằng ý niệm tâm linh rất gần gũi nhưng cũng rất cao xa như “Trời Đất Phật Thánh”. Làng nào cũng có một ngôi chùa làng trong bộ “tứ thiêng”: Đình, chùa, miếu, vũ cùng với chỗ dựa tâm linh “cầu nguyện ơn trên”, không cần phải rạch ròi phân biệt. Càng về sau, khi nhu cầu tu dưỡng và tính tổ chức càng cao thì hình thức tổ chức hội đoàn xuất hiện.

Khởi đầu thập niên 1930, noi gương Miến Điện, Tích Lan, Nhật Bản và nhất là Trung Hoa với Thái Hư Đại Sư làm chủ xướng, một phong trào chấn hưng Phật giáo đã hình thành ở Việt Nam. Có thể nói tinh thần cốt lõi trong công cuộc chấn hưng Phật giáo là đem đạo vào đời. Đó là một quá trình hiện đại hóa để khởi động và phát huy vai trò tích cực của đạo Phật, biến tâm linh thuần lý thành tâm linh ứng dụng. Đặc biệt là khuynh hướng đưa tuổi trẻ vào đạo Phật.

Từ 1932, những nhóm thiếu niên, thiếu nữ bắt đầu có mặt dưới những tên gọi dành cho trẻ con theo người lớn đến chùa là những ban Đồng Ấu.

Trong công cuộc chấn hưng Phật giáo Việt Nam thời kỳ 1930, một nhân vật nổi bật tại Trung Kỳ là bác sĩ Lê Đình Thám, pháp danh Tâm Minh. Có thể nói rằng, cư sĩ Tâm Minh đã cùng với các danh tăng, trí thức Phật giáo, giới cư sĩ và đại chúng Phật tử có khuynh hướng cấp tiến đương thời đã vực tuổi trẻ dậy. Vực dậy từ bóng mờ bị che khuất sau lưng thế giới người lớn. Các em đã được thế hệ đàn anh thương quý đón mời để dẫn tới trước cửa ngõ Văn hóa Phật giáo. Tuổi trẻ Việt Nam lần đầu được tiếp cận đạo Phật với tư cách của những người trẻ tuổi có tri thức, nhân cách và vị thế riêng chứ không phải là những “cụ già thu nhỏ” lon ton níu áo chạy theo những cụ già đạo hữu đã thành cây đại thụ trong Vườn Nhà Lam như bao nhiêu năm về trước.

Đây là lần đầu tiên, các em thiếu nhi không phải là những người lớn thu nhỏ mà có hẳn một vai trò được công nhận trong sinh hoạt Phật giáo Việt Nam thời cận đại. Đó là sự ra đời của Gia Đình Phật Hoá Phổ – Tiền thân của Gia Đình Phật Tử Việt Nam – vào năm 1930 với sự tham gia của một thế hệ đàn anh, đàn chị là những nhân vật thành danh, có đầy đủ năng lực và uy tín trong nhiều lĩnh vực, đảm trách vai trò huynh trưởng lãnh đạo, tổ chức và giáo dục.

Năm 1940, đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục, được gọi theo tiếng Pháp là “Commission d’Études Bouddhiques et de Perfectionnement Moral” được thành lập tại Huế. Ngày Phật Đản 1944, một đại hội thanh niên được tổ chức tại đồi Quảng Tế, Huế, khai sinh Gia Đình Phật Hóa Phổ. Đó là tiền thân của Gia Đình Phật Tử sau nầy.

Nhờ viễn kiến với tầm nhìn xa, thấy rộng của Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám và các trí thức, văn nghệ sĩ Phật giáo nổi tiếng thời bấy giờ mà tinh thần kế thừa của thế hệ trẻ được nuôi dưỡng và phát huy trong khung cảnh cửa thiền. Những tên tuổi đã thành danh như Tráng Thông, Đinh Văn Nam, Võ Đình Cường, Phạm Hữu Bình, Lê Bối, Nguyễn Hữu Ba, Phạm Đăng Trí, Lê Ngọc Thừa, Đinh Văn Vinh... đã cùng nhau năng nỗ đóng góp tài năng và tấm lòng cho thế hệ trẻ.

Chủ trương nổi bật nhất của công cuộc chấn hưng dành cho tuổi trẻ là khai phóng và kế thừa. Khai phóng là sự khai thông, mở trói, đối thoại, bình đẳng của mọi khuynh hướng thay đổi theo chiều hướng tích cực của trào lưu tự do dân chủ trên toàn thế giới như cải tiến, chấn hưng. Đó là một tiến trình cải cách và ứng dụng nhằm làm rõ thêm, đẹp thêm, phong phú thêm và hữu dụng thêm từ một thực tại đang bị thoái trào hay đứng yên trong tù đọng và xuống cấp trong lãng quên. Khai phóng là phá bỏ những rào cản giới hạn, nhất quán và quyết đoán mở ra những con đường tươi mới, phát huy những khả năng và tiềm năng tổng hợp để vận dụng vào nỗ lực phá bỏ hiện trạng tiêu cực và xây dựng lại theo hướng tiến tích cực. Nói tóm lại, khai phóng là tiền đề của tự do dân chủ, của cánh cửa thoáng rộng để hiểu và bước vào cửa ngõ của Văn Hóa Phật Giáo.

Việt Nam với một số dân trên 85 triệu người thuộc vào khối những nước có “dân trẻ”. Theo thống kê năm 2009 thì 65% dân Việt trong nước thuộc về thế hệ trẻ. “Tuổi trẻ” thường được định nghĩa là lớp người ở giai đoạn đầu lứa tuổi trung niên (30-35) hay trẻ hơn.

Với tri thức và tâm lý tuổi trẻ Việt Nam hiện nay, cuộc Chiến Tranh Việt Nam đã đi vào lịch sử. Đấy có thể là nguồn sử liệu phong phú để tham khảo, nghiên cứu, nhận thức hay trân trọng chứ không còn là chất liệu sống vẫn còn tươi mới, vẫn hằng ngày rần rật chạy trong máu thịt như thế hệ đàn anh.

Trong lĩnh vực tâm linh và tôn giáo, tuổi trẻ Việt Nam và thế giới – nếu không bị hệ lụy trói buộc bởi truyền thống kế thừa tôn giáo nặng nề của gia đình – thường có cái nhìn dò hỏi, khai phá và độc lập của chính mình trên căn bản kiến thức hiện đại và sự suy niệm về tâm linh tự do, phóng khoáng. Không hiểu tuổi trẻ Việt Nam sẽ có bao nhiêu người đồng ý với một người tuổi trẻ Hoa Kỳ, tổ tiên gốc Ái Nhĩ Lan (Ireland), có tôn giáo gia đình là Tin Lành Thệ Phản (Protestant). Đó là Sam Shaw, một thanh niên 28 tuổi, sinh ra và lớn lên tại Mỹ, tốt nghiệp đại học Princeton. Sam Shaw viết trong Nhật Ký Hành Hương (Diary of a Pilgrimage. Batam; NY. 2009.): “Tôi là một người Ki Tô giáo ‘vô thần’ vì tôi tin rằng, Thượng Đế, đấng Jesus Christ chẳng phải là những con người giống như loài người nhỏ bé đang chen chúc trên hành tinh nầy. Những vị cao cả ấy là Sự Thật hay là Người Nói Lên Sự Thật. Các Ngài không phải là thần linh trao truyền phép lạ xa vời và đầy ảo tưởng. Các Ngài là những tia sáng rực rỡ, tỏa sáng tận cùng trong đầu óc tôi, trong trái tim tôi...” (NKHH. Tr. 261)

Tuổi trẻ nhìn về tôn giáo sao mà đẹp lạ lùng. Một câu La Tinh đầy minh triết khắc trên một đại giáo đường lừng danh thế giới như Notre Dame ở Paris chắc gì đã đánh động được lòng người bằng một dòng chữ đơn sơ dán sau kính xe của một người trẻ tuổi phương Tây, như: “I am lonely, Jesus is my best friend.” (Tôi cô đơn, Đức Giê Su là người bạn chí thiết nhất của tôi.)Tôn giáo không còn là thần linh và ma quỷ. Tôn giáo chính là phần tinh hoa cao cả và siêu tuyệt nhất từ thời vô thủy và đến hôm nay vẫn còn hiện hữu trong tâm thức sâu kín của mỗi con người.

Với một tinh thần “phá chấp” như Sam Shaw, vô hình chung, tuổi trẻ đang đứng trước chân trời thoáng rộng của văn hóa Phật giáo. Đó là một thế giới mênh mông, trùng điệp những cánh rừng thiền bạt ngàn không có rào khóa hay giới hạn nhỏ bé của những khái niệm bị xé nhỏ, tách rời hiện thực như: Duy tâm, duy vật; triềt lý, giáo lý; tín điều, tư tưởng; khoa học, tâm linh... Trong một tổng thể “hợp duyên” chẳng có một sự lý hay sự việc nào chỉ do một nguyên nhân hay điều kiện duy nhất mà thành cả.

Giáo điều, nhồi sọ, áp đặt lối nhìn và cách nghĩ không thích hợp... là khuynh hướng truyền thống của tôn giáo đối với tuổi trẻ. Hậu quả không tránh khỏi là lớp tuổi trẻ “ngoan đạo” sẽ bị mụ mẫm đầu óc và niềm tin tôn giáo sẽ tiến tới gần hay bị đồng hóa với mê tín dị đoan. Lớp trẻ không bị trói buộc sẽ quay lưng với tôn giáo vì không tìm thấy ở đó sự thông thoáng, hồn nhiên, tươi mát đáp ứng cho nhu cầu tâm linh.

Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mà đặc biệt là sự tiến bộ nhảy vọt của ngành thông tin vi tính. Môi trường truyền thông đại chúng đã rút ngắn khoảng cách không gian và thời gian giữa mỗi cá nhân và môi trường sống toàn cầu. Sinh hoạt tôn giáo cũng theo sự biến chuyển đó mà thay đổi. Tính cách huyền nhiệm, linh thiêng, kỳ bí của tôn giáo giảm dần theo sự phát triển của mạng lưới truyền thông. Ngày xưa, lời tuyên bố của hàng giáo phẩm cao cấp trong tôn giáo thường mang tính cách giáo chỉ, pháp lệnh đối với tín đồ trong tôn giáo đó. Nhưng ngày nay, sự “giao khoán” đức tin không có lý do tồn tại. Nhất là đối với đạo Phật thì chính đức Phật đã dạy rằng, cần phải hiểu trước đã mới tin. Tin bừa là làm thui chột chính mình và phỉ báng người đưa tin.

Mạng lưới thông tin, vi tính thời nay có tác động tinh thần mạnh mẽ đối với tuổi trẻ vượt ra ngoài dự ước của thế hệ đàn anh. Thế giới có 7 tỷ người mà dân cư mạng lưới internet chiếm hơn 6 tỉ; trong khi tín đồ của 20 tôn giáo (có từ 1 triệu tín đồ trở lên) cộng lại thì chỉ mới 4 tỷ. Đa số tuổi trẻ trên thế giới thực hành “công phu” với mạng lưới internet thường xuyên hơn là tới các nơi thờ phụng của tôn giáo. Tiếng nói của truyền thông có sức thông tin, bình luận, thuyết phục và lôi kéo tuổi trẻ trực tiếp và mạnh mẽ hơn là hấp lực của tôn giáo. Đây vừa là một cơ hội nhưng đồng thời vừa là một hệ lụy cho tuổi trẻ vì mạng lưới toàn cầu có khả năng là một đống rác vĩ đại, mặc dầu cũng có vô số vàng bạc, minh châu. Nhưng làm sao để tìm được của quý mà khỏi bị vấy bẩn vẫn còn là một nan đề cho tuổi trẻ thời nay.

Trong các tôn giáo lớn của thế giới ngày nay, chỉ có duy nhất đạo Phật là có tín đồ bình đẳng với giáo chủ. Nhà Phật mở ra một chân trời tự do khi tín lý nhà Phật xác định mọi sinh thể đều có sẵn Chân tánh, Phật tánh trong mình nên mọi chúng sinh đều có khả năng thành một vị Phật của tương lai.

Xu thế phù hợp với luận lý và chức năng của thời đại thuộc mọi lĩnh vực là có gieo trồng mới có thu hoạch; có đầu tư mới có lợi nhuận. Đạo Phật đã đưa ra một bản vẽ rõ ràng của công trình “đầu tư” ấy. Đó là TU. Tu không phải là van lạy cầu xin tha lực mà phải tự mình khổ luyện mới thành. Như sự Khổ là một hệ lụy tất nhiên của đời sống, nhưng không có thuốc “diệt khổ” nào ngoài chính mình biết nương theo Phật pháp làm phương tiện để tự cứu lấy mình cho bớt khổ. Phật giáo trong cũng như ngoài nước quan tâm tham dự những khóa tu ngày càng đông. Đặc biệt là những khóa tu mùa Hè dành riêng cho tuổi trẻ đang diễn ra khắp nơi. Như khóa Tu Mùa Hè đợt 1 của chùa Hoằng Pháp đã quy tụ tới 2200 thiếu niên nam nữ nô nức về tham dự. Tại những thành phố lớn, đông người Việt ở Hải ngoại, các trung tâm văn hóa Phật giáo cũng có những khóa tu đặc biệt dành cho tuổi trẻ Việt Nam và nước ngoài. Chùa Tam Bảo, thành phố Baton Rouge ở miền Đông nước Mỹ cũng có khóa tu mùa Hè bằng Anh Ngữ dành riêng cho tuổi trẻ.

Nói đến tuổi trẻ là nói đến một thế giới đầy linh hoạt, biến chuyển rất nhanh và luôn luôn tươi mới vì đang ở trong bình minh của cuộc đời. Đạo Phật cũng chỉ rõ sự sống là một dòng biến dịch không ngừng từ vô thủy đến vô chung. Tất cả đều ở trong vòng quay biến hiện qua từng sát na sinh diệt. Bởi vậy, tuổi trẻ và đạo Phật gặp nhau bằng sự tương ứng tự nhiên chứ không qua ngưỡng cửa của lý luận và rao giảng.

Thử lắng nghe một thanh niên 18 tuổi nói lên cảm tưởng của chính mình với bằng hữu cùng trang lứa về một khóa tu: “Tớ là Nguyễn Minh Luân, 18 tuổi. Hè này, tớ đã có một quyết định khiến cả gia đình lẫn bạn bè đều hết hồn: Đi tu! Không phải đi tu là cạo đầu xuất gia lên chùa ở luôn mà tớ đăng ký ‘Khóa tu mùa Hè’, một chương trình học đạo đặc biệt chỉ dành cho thanh thiếu niên do chùa Hoằng Pháp tổ chức. Có 2200 teen quyết tâm đi tu (...) Cuộc sống hiện tại với những giá trị vật chất đầy đủ khiến cho tuổi teen chúng mình thích chạy theo những xu hướng mới, thích tự khẳng định mình. Nhưng nếu bạn cùng chúng tớ thử một buổi tối ngồi thiền dưới những ngọn nến lấp lánh và cầu nguyện, bạn sẽ lắng nghe được ước mơ và những điều tốt đẹp nhất từ chính mình đấy!”

Tuổi trẻ thế hệ Nguyễn Minh Luân không còn đứng trước cửa ngõ mà đã mở cửa bước vào thế giới văn hóa Phật giáo rồi đó.

Trần Kiêm Đoàn, MSW; Ph.D
Đại học LPU, CSUS, CRC (Mỹ)
Cựu Liên đoàn trưởng GĐPT Liễu Hạ (62-67)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/11/2021(Xem: 16684)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 10614)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 11748)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12208)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 15083)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 11964)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16791)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12597)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7848)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 20238)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567