Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuổi trẻ thời nay trước cửa ngõ văn hóa Phật giáo

01/08/201119:29(Xem: 4086)
Tuổi trẻ thời nay trước cửa ngõ văn hóa Phật giáo

TUỔI TRẺ THỜI NAY
TRƯỚC CỬA NGÕ VĂN HÓA PHẬT GIÁO

Trần Kiêm Đoàn

Tuổi trẻ thế hệ Tiền Chiến (trước 1945) đi ghe chèo, xe ngựa. Tuổi trẻ thế hệ 1950 đi ghe máy đuôi tôm, xe đạp. Tuổi trẻ thời 1960 đi đò máy dầu cặn, xe mô tô 2 bánh. Tuổi trẻ thời 1980 đi tàu thủy, ô tô. Tuổi trẻ thời nay đi tàu cao tốc, máy bay. Đấy là một bức tranh khá sống động minh họa cho tốc độ chuyển biến của quá trình phát triển khoa học kỹ thuật. Trong đó, tuổi trẻ là lực lượng nhiệt tình và năng nỗ nhất.

Tuổi trẻ Việt Nam trong vài thế kỷ trước đã lớn lên cùng nhịp độ với thiên nhiên, trưởng thành chậm và già đi rất sớm như cụ Nguyễn Công Trứ xếp loại: “Mười lăm trẻ, năm mươi già không kể”! Tuổi trẻ ngày nay, nói chung, đã khôn lớn và trưởng thành rất sớm theo môi trường sinh hóa, tư tưởng, khoa học kỹ thuật và tâm linh của xã hội chuyển biến và tiến bộ ngày càng nhanh. Lớp người trẻ tuổi phát triển tri thức sớm là một hiện tượng tích cực mà ngày xưa các cụ nhà ta gọi là “khôn trước tuổi”.

Đã từng có một thời, nhất là 100 năm dưới sự đô hộ của Pháp, thế lực cầm quyền thực dân đã xông xáo chủ trương lấy văn hóa phương Tây để thay thế cho văn hóa Việt Nam truyền thống. Văn hóa Phật giáo đồng hành và đồng điệu với văn hóa Dân tộc, nên Phật giáo Việt Nam cũng đã bị vùi dập không ngừng bởi chủ trương tha hóa để chinh phục và chia để trị của chủ trương thực dân đô hộ phương Tây. Nếp sinh hoạt chùa chiền và tự viện bị biến tướng thành thế giới hương khói của người già. Đạo Phật bị xem là sự ru ngủ của lớp tuổi trẻ sớm chán đời và lười biếng. Sinh hoạt Phật giáo bị thu nhỏ, ẩn tàng dưới bóng cây đa và mái cổ rêu phong. Những thiền tăng có khuynh hướng muốn vươn lên cải tổ và chấn hưng Phật giáo thì bị thế lực Tây và Ta theo Tây chụp ngay cái mũ “Giặc Thầy Chùa” để ra tay đàn áp và vùi dập. Thiền môn vắng bóng tuổi trẻ.

Đạo Phật Việt Nam lắng sâu vào lòng dân tộc : Có những hoàn cảnh đạo Phật kết hợp và thay thế cho đời sống tâm linh dân gian như trong các lễ nghi quan hôn tang tế ; có những lúc đạo Phật đồng hành và che chắn cho tinh thần hay cao trào hành động yêu nước chống ngoại xâm. Suốt trăm năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, đạo Phật ẩn nhẫn trong chốn chùa chiền, tu viện và bị giới hạn trong một quy chế hoạt động của một hội đoàn quần chúng đời thường.

Rất khác với Trung Hoa, nơi mà Phật giáo chỉ tiếp cận với tầng lớp sĩ phu, trí thức; hay Nhật Bản, nơi mà Phật giáo nằm trong tay hàng quý tộc và võ sĩ đạo, đạo Phật Việt Nam đi vào mạch sống của dân tộc Việt Nam một cách tự nhiên bằng ý niệm tâm linh rất gần gũi nhưng cũng rất cao xa như “Trời Đất Phật Thánh”. Làng nào cũng có một ngôi chùa làng trong bộ “tứ thiêng”: Đình, chùa, miếu, vũ cùng với chỗ dựa tâm linh “cầu nguyện ơn trên”, không cần phải rạch ròi phân biệt. Càng về sau, khi nhu cầu tu dưỡng và tính tổ chức càng cao thì hình thức tổ chức hội đoàn xuất hiện.

Khởi đầu thập niên 1930, noi gương Miến Điện, Tích Lan, Nhật Bản và nhất là Trung Hoa với Thái Hư Đại Sư làm chủ xướng, một phong trào chấn hưng Phật giáo đã hình thành ở Việt Nam. Có thể nói tinh thần cốt lõi trong công cuộc chấn hưng Phật giáo là đem đạo vào đời. Đó là một quá trình hiện đại hóa để khởi động và phát huy vai trò tích cực của đạo Phật, biến tâm linh thuần lý thành tâm linh ứng dụng. Đặc biệt là khuynh hướng đưa tuổi trẻ vào đạo Phật.

Từ 1932, những nhóm thiếu niên, thiếu nữ bắt đầu có mặt dưới những tên gọi dành cho trẻ con theo người lớn đến chùa là những ban Đồng Ấu.

Trong công cuộc chấn hưng Phật giáo Việt Nam thời kỳ 1930, một nhân vật nổi bật tại Trung Kỳ là bác sĩ Lê Đình Thám, pháp danh Tâm Minh. Có thể nói rằng, cư sĩ Tâm Minh đã cùng với các danh tăng, trí thức Phật giáo, giới cư sĩ và đại chúng Phật tử có khuynh hướng cấp tiến đương thời đã vực tuổi trẻ dậy. Vực dậy từ bóng mờ bị che khuất sau lưng thế giới người lớn. Các em đã được thế hệ đàn anh thương quý đón mời để dẫn tới trước cửa ngõ Văn hóa Phật giáo. Tuổi trẻ Việt Nam lần đầu được tiếp cận đạo Phật với tư cách của những người trẻ tuổi có tri thức, nhân cách và vị thế riêng chứ không phải là những “cụ già thu nhỏ” lon ton níu áo chạy theo những cụ già đạo hữu đã thành cây đại thụ trong Vườn Nhà Lam như bao nhiêu năm về trước.

Đây là lần đầu tiên, các em thiếu nhi không phải là những người lớn thu nhỏ mà có hẳn một vai trò được công nhận trong sinh hoạt Phật giáo Việt Nam thời cận đại. Đó là sự ra đời của Gia Đình Phật Hoá Phổ – Tiền thân của Gia Đình Phật Tử Việt Nam – vào năm 1930 với sự tham gia của một thế hệ đàn anh, đàn chị là những nhân vật thành danh, có đầy đủ năng lực và uy tín trong nhiều lĩnh vực, đảm trách vai trò huynh trưởng lãnh đạo, tổ chức và giáo dục.

Năm 1940, đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục, được gọi theo tiếng Pháp là “Commission d’Études Bouddhiques et de Perfectionnement Moral” được thành lập tại Huế. Ngày Phật Đản 1944, một đại hội thanh niên được tổ chức tại đồi Quảng Tế, Huế, khai sinh Gia Đình Phật Hóa Phổ. Đó là tiền thân của Gia Đình Phật Tử sau nầy.

Nhờ viễn kiến với tầm nhìn xa, thấy rộng của Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám và các trí thức, văn nghệ sĩ Phật giáo nổi tiếng thời bấy giờ mà tinh thần kế thừa của thế hệ trẻ được nuôi dưỡng và phát huy trong khung cảnh cửa thiền. Những tên tuổi đã thành danh như Tráng Thông, Đinh Văn Nam, Võ Đình Cường, Phạm Hữu Bình, Lê Bối, Nguyễn Hữu Ba, Phạm Đăng Trí, Lê Ngọc Thừa, Đinh Văn Vinh... đã cùng nhau năng nỗ đóng góp tài năng và tấm lòng cho thế hệ trẻ.

Chủ trương nổi bật nhất của công cuộc chấn hưng dành cho tuổi trẻ là khai phóng và kế thừa. Khai phóng là sự khai thông, mở trói, đối thoại, bình đẳng của mọi khuynh hướng thay đổi theo chiều hướng tích cực của trào lưu tự do dân chủ trên toàn thế giới như cải tiến, chấn hưng. Đó là một tiến trình cải cách và ứng dụng nhằm làm rõ thêm, đẹp thêm, phong phú thêm và hữu dụng thêm từ một thực tại đang bị thoái trào hay đứng yên trong tù đọng và xuống cấp trong lãng quên. Khai phóng là phá bỏ những rào cản giới hạn, nhất quán và quyết đoán mở ra những con đường tươi mới, phát huy những khả năng và tiềm năng tổng hợp để vận dụng vào nỗ lực phá bỏ hiện trạng tiêu cực và xây dựng lại theo hướng tiến tích cực. Nói tóm lại, khai phóng là tiền đề của tự do dân chủ, của cánh cửa thoáng rộng để hiểu và bước vào cửa ngõ của Văn Hóa Phật Giáo.

Việt Nam với một số dân trên 85 triệu người thuộc vào khối những nước có “dân trẻ”. Theo thống kê năm 2009 thì 65% dân Việt trong nước thuộc về thế hệ trẻ. “Tuổi trẻ” thường được định nghĩa là lớp người ở giai đoạn đầu lứa tuổi trung niên (30-35) hay trẻ hơn.

Với tri thức và tâm lý tuổi trẻ Việt Nam hiện nay, cuộc Chiến Tranh Việt Nam đã đi vào lịch sử. Đấy có thể là nguồn sử liệu phong phú để tham khảo, nghiên cứu, nhận thức hay trân trọng chứ không còn là chất liệu sống vẫn còn tươi mới, vẫn hằng ngày rần rật chạy trong máu thịt như thế hệ đàn anh.

Trong lĩnh vực tâm linh và tôn giáo, tuổi trẻ Việt Nam và thế giới – nếu không bị hệ lụy trói buộc bởi truyền thống kế thừa tôn giáo nặng nề của gia đình – thường có cái nhìn dò hỏi, khai phá và độc lập của chính mình trên căn bản kiến thức hiện đại và sự suy niệm về tâm linh tự do, phóng khoáng. Không hiểu tuổi trẻ Việt Nam sẽ có bao nhiêu người đồng ý với một người tuổi trẻ Hoa Kỳ, tổ tiên gốc Ái Nhĩ Lan (Ireland), có tôn giáo gia đình là Tin Lành Thệ Phản (Protestant). Đó là Sam Shaw, một thanh niên 28 tuổi, sinh ra và lớn lên tại Mỹ, tốt nghiệp đại học Princeton. Sam Shaw viết trong Nhật Ký Hành Hương (Diary of a Pilgrimage. Batam; NY. 2009.): “Tôi là một người Ki Tô giáo ‘vô thần’ vì tôi tin rằng, Thượng Đế, đấng Jesus Christ chẳng phải là những con người giống như loài người nhỏ bé đang chen chúc trên hành tinh nầy. Những vị cao cả ấy là Sự Thật hay là Người Nói Lên Sự Thật. Các Ngài không phải là thần linh trao truyền phép lạ xa vời và đầy ảo tưởng. Các Ngài là những tia sáng rực rỡ, tỏa sáng tận cùng trong đầu óc tôi, trong trái tim tôi...” (NKHH. Tr. 261)

Tuổi trẻ nhìn về tôn giáo sao mà đẹp lạ lùng. Một câu La Tinh đầy minh triết khắc trên một đại giáo đường lừng danh thế giới như Notre Dame ở Paris chắc gì đã đánh động được lòng người bằng một dòng chữ đơn sơ dán sau kính xe của một người trẻ tuổi phương Tây, như: “I am lonely, Jesus is my best friend.” (Tôi cô đơn, Đức Giê Su là người bạn chí thiết nhất của tôi.)Tôn giáo không còn là thần linh và ma quỷ. Tôn giáo chính là phần tinh hoa cao cả và siêu tuyệt nhất từ thời vô thủy và đến hôm nay vẫn còn hiện hữu trong tâm thức sâu kín của mỗi con người.

Với một tinh thần “phá chấp” như Sam Shaw, vô hình chung, tuổi trẻ đang đứng trước chân trời thoáng rộng của văn hóa Phật giáo. Đó là một thế giới mênh mông, trùng điệp những cánh rừng thiền bạt ngàn không có rào khóa hay giới hạn nhỏ bé của những khái niệm bị xé nhỏ, tách rời hiện thực như: Duy tâm, duy vật; triềt lý, giáo lý; tín điều, tư tưởng; khoa học, tâm linh... Trong một tổng thể “hợp duyên” chẳng có một sự lý hay sự việc nào chỉ do một nguyên nhân hay điều kiện duy nhất mà thành cả.

Giáo điều, nhồi sọ, áp đặt lối nhìn và cách nghĩ không thích hợp... là khuynh hướng truyền thống của tôn giáo đối với tuổi trẻ. Hậu quả không tránh khỏi là lớp tuổi trẻ “ngoan đạo” sẽ bị mụ mẫm đầu óc và niềm tin tôn giáo sẽ tiến tới gần hay bị đồng hóa với mê tín dị đoan. Lớp trẻ không bị trói buộc sẽ quay lưng với tôn giáo vì không tìm thấy ở đó sự thông thoáng, hồn nhiên, tươi mát đáp ứng cho nhu cầu tâm linh.

Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mà đặc biệt là sự tiến bộ nhảy vọt của ngành thông tin vi tính. Môi trường truyền thông đại chúng đã rút ngắn khoảng cách không gian và thời gian giữa mỗi cá nhân và môi trường sống toàn cầu. Sinh hoạt tôn giáo cũng theo sự biến chuyển đó mà thay đổi. Tính cách huyền nhiệm, linh thiêng, kỳ bí của tôn giáo giảm dần theo sự phát triển của mạng lưới truyền thông. Ngày xưa, lời tuyên bố của hàng giáo phẩm cao cấp trong tôn giáo thường mang tính cách giáo chỉ, pháp lệnh đối với tín đồ trong tôn giáo đó. Nhưng ngày nay, sự “giao khoán” đức tin không có lý do tồn tại. Nhất là đối với đạo Phật thì chính đức Phật đã dạy rằng, cần phải hiểu trước đã mới tin. Tin bừa là làm thui chột chính mình và phỉ báng người đưa tin.

Mạng lưới thông tin, vi tính thời nay có tác động tinh thần mạnh mẽ đối với tuổi trẻ vượt ra ngoài dự ước của thế hệ đàn anh. Thế giới có 7 tỷ người mà dân cư mạng lưới internet chiếm hơn 6 tỉ; trong khi tín đồ của 20 tôn giáo (có từ 1 triệu tín đồ trở lên) cộng lại thì chỉ mới 4 tỷ. Đa số tuổi trẻ trên thế giới thực hành “công phu” với mạng lưới internet thường xuyên hơn là tới các nơi thờ phụng của tôn giáo. Tiếng nói của truyền thông có sức thông tin, bình luận, thuyết phục và lôi kéo tuổi trẻ trực tiếp và mạnh mẽ hơn là hấp lực của tôn giáo. Đây vừa là một cơ hội nhưng đồng thời vừa là một hệ lụy cho tuổi trẻ vì mạng lưới toàn cầu có khả năng là một đống rác vĩ đại, mặc dầu cũng có vô số vàng bạc, minh châu. Nhưng làm sao để tìm được của quý mà khỏi bị vấy bẩn vẫn còn là một nan đề cho tuổi trẻ thời nay.

Trong các tôn giáo lớn của thế giới ngày nay, chỉ có duy nhất đạo Phật là có tín đồ bình đẳng với giáo chủ. Nhà Phật mở ra một chân trời tự do khi tín lý nhà Phật xác định mọi sinh thể đều có sẵn Chân tánh, Phật tánh trong mình nên mọi chúng sinh đều có khả năng thành một vị Phật của tương lai.

Xu thế phù hợp với luận lý và chức năng của thời đại thuộc mọi lĩnh vực là có gieo trồng mới có thu hoạch; có đầu tư mới có lợi nhuận. Đạo Phật đã đưa ra một bản vẽ rõ ràng của công trình “đầu tư” ấy. Đó là TU. Tu không phải là van lạy cầu xin tha lực mà phải tự mình khổ luyện mới thành. Như sự Khổ là một hệ lụy tất nhiên của đời sống, nhưng không có thuốc “diệt khổ” nào ngoài chính mình biết nương theo Phật pháp làm phương tiện để tự cứu lấy mình cho bớt khổ. Phật giáo trong cũng như ngoài nước quan tâm tham dự những khóa tu ngày càng đông. Đặc biệt là những khóa tu mùa Hè dành riêng cho tuổi trẻ đang diễn ra khắp nơi. Như khóa Tu Mùa Hè đợt 1 của chùa Hoằng Pháp đã quy tụ tới 2200 thiếu niên nam nữ nô nức về tham dự. Tại những thành phố lớn, đông người Việt ở Hải ngoại, các trung tâm văn hóa Phật giáo cũng có những khóa tu đặc biệt dành cho tuổi trẻ Việt Nam và nước ngoài. Chùa Tam Bảo, thành phố Baton Rouge ở miền Đông nước Mỹ cũng có khóa tu mùa Hè bằng Anh Ngữ dành riêng cho tuổi trẻ.

Nói đến tuổi trẻ là nói đến một thế giới đầy linh hoạt, biến chuyển rất nhanh và luôn luôn tươi mới vì đang ở trong bình minh của cuộc đời. Đạo Phật cũng chỉ rõ sự sống là một dòng biến dịch không ngừng từ vô thủy đến vô chung. Tất cả đều ở trong vòng quay biến hiện qua từng sát na sinh diệt. Bởi vậy, tuổi trẻ và đạo Phật gặp nhau bằng sự tương ứng tự nhiên chứ không qua ngưỡng cửa của lý luận và rao giảng.

Thử lắng nghe một thanh niên 18 tuổi nói lên cảm tưởng của chính mình với bằng hữu cùng trang lứa về một khóa tu: “Tớ là Nguyễn Minh Luân, 18 tuổi. Hè này, tớ đã có một quyết định khiến cả gia đình lẫn bạn bè đều hết hồn: Đi tu! Không phải đi tu là cạo đầu xuất gia lên chùa ở luôn mà tớ đăng ký ‘Khóa tu mùa Hè’, một chương trình học đạo đặc biệt chỉ dành cho thanh thiếu niên do chùa Hoằng Pháp tổ chức. Có 2200 teen quyết tâm đi tu (...) Cuộc sống hiện tại với những giá trị vật chất đầy đủ khiến cho tuổi teen chúng mình thích chạy theo những xu hướng mới, thích tự khẳng định mình. Nhưng nếu bạn cùng chúng tớ thử một buổi tối ngồi thiền dưới những ngọn nến lấp lánh và cầu nguyện, bạn sẽ lắng nghe được ước mơ và những điều tốt đẹp nhất từ chính mình đấy!”

Tuổi trẻ thế hệ Nguyễn Minh Luân không còn đứng trước cửa ngõ mà đã mở cửa bước vào thế giới văn hóa Phật giáo rồi đó.

Trần Kiêm Đoàn, MSW; Ph.D
Đại học LPU, CSUS, CRC (Mỹ)
Cựu Liên đoàn trưởng GĐPT Liễu Hạ (62-67)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2023(Xem: 5362)
Phương pháp phát triển cá nhân mà nhà sư Sangharakshita nói đến trong bài này là phép thiền định của Phật giáo, một phép luyện tập nhằm biến cải một con người bình dị trở thành một con người đạo đức, sáng suốt và cao quý hơn, và ở một cấp bậc sâu xa hơn nữa còn có thể giúp con người đạo đức, sáng suốt và cao quý ấy thoát ra khỏi thế giới hiện tượng luôn trong tình trạng chuyển động và khổ đau này.
23/12/2022(Xem: 13793)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
02/11/2022(Xem: 18345)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 13894)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12285)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6480)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8675)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7703)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
14/11/2021(Xem: 16567)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 10488)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567