Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo và hành hương

02/01/201105:16(Xem: 7483)
Phật giáo và hành hương
Pagoda_2
Người xưa nói: “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Con người có mặt trong cuộc sống, ngoài việc phải nắm bắt thời gian, giành lấy thời gian, tận dụng thời gian, làm nhiều việc mang lại lợi ích cho xã hội, ngoài mục đích kéo dài tuổi thọ về mặt thời gian ra, còn cần phải mở rộng phạm vi đời sống, mở mang không gian tâm linh, để bản thân có thể hòa nhập vào nhân quần, hướng về cộng đồng thế giới. 
 
Du ngoạn, du lịch, hành hương chính là một vài trong những phương cách làm tăng sự hiểu biết, khám phá nhiều lĩnh vực của đời sống. Du lịch là ngành công nghiệp không khói. Phát triển du ngoạn du lịch để thu được nhiều ngoại tệ, đã trở thành chính sách quan trọng đối với sự thịnh vượng kinh tế của các nước trên khắp thế giới thời cận đại. Cho dù đó là một cảnh quan thiên nhiên, một di tích văn vật, văn hóa lịch sử, hay nhờ vào kinh tế thương mại phồn thịnh…, tất cả đều đã trở thành nguồn tài nguyên phát triển du lịch của các quốc gia trên khắp thế giới.

Trong sự nghiệp du lịch thì cảnh quan về hang động và chùa tháp của Phật giáo có thể coi là phong phú bậc nhất về cái đẹp nghệ thuật tôn giáo, cho nên tài nguyên cho các hoạt động thăm viếng ngoạn cảnh thật dồi dào. Người xưa đã có câu “Thiên hạ danh sơn tăng chiếm đa” (Những ngọn núi nổi tiếng dưới bầu trời này hầu hết là thuộc về các người tu hành). 
 
Thật vậy, từ xưa hầu hết tự viện của Phật giáo đều được xây dựng ở những nơi núi non trùng điệp, phong cảnh tú lệ. Kiến trúc tự viện vốn đã rất lộng lẫy xinh đẹp, lại lồng với vẻ đẹp tự nhiên của cổ thụ cao ngút, cho nên “danh sơn cổ sát”, “già lam thắng địa”, luôn là điểm đến đẹp nhất mà người đời thường mong muốn tìm tới thưởng thức, chiêm ngưỡng trong những ngày nghỉ ngơi giải trí. 

Đến tự viện của Phật giáo hành hương ngoạn cảnh, ngoài việc trực tiếp mắt thấy tai nghe, trong tâm hồn còn có những cảm nhận sâu sắc về sự khác biệt giữa chốn trần tục xô bồ náo nhiệt với chốn u nhã, tịch tĩnh. Từ đây, tinh thần được nâng cao không gì sánh bằng. Giáo nghĩa, nghi quy, văn hóa, di tích… của Phật giáo, đều có thể mang lại sự khơi gợi, mở rộng tư tưởng, tầm nhìn cho con người, có thể làm cho thân tâm an định, nhẹ nhõm. Ngay cả trong trường hợp người không có tín ngưỡng Phật giáo, cũng có thể yêu thích những chốn an tịnh, hòa nhã này.

Trước đây có những chùa chiền đạo tràng, kiến trúc rất cao hiểm, đặc biệt, rất có giá trị tham quan, ví dụ như chùa Huyền Không ở Sơn Tây, xứng danh là một ngôi tự viện treo bên sườn núi, mỏm đá nhấp nhô, nhìn xuống thung lũng sâu thẳm, hơn ba mươi tòa khác nhau như điện, đường, lâu, các, đan xen vào nhau, phối hợp hài hòa, có tính nghệ thuật cao, hệt như cung vàng điện ngọc đến từ hư không.

Hang đá Mạch Tích Sơn (1)  có quy mô to lớn, các hang động được phân bố rải rác trên các vách núi, đường núi hiểm trở được mở ra trên những vách cheo leo, uốn lượn quanh co, khiến người thưởng thức cảm thấy thỏa mãn; Đại Phật ở huyện Lạc Sơn tỉnh Tứ Xuyên, chạm đục trên các vách đá hiểm trở, cao ngút sừng sững, khí thế hùng vĩ, để lại thánh dung muôn thuở, nhìn xuống chúng sinh; ngôi điện Phật bằng đồng (tục gọi là Kim điện) của Kim Đỉnh núi Nga Mi, được vận chuyển đến mãi tận từ Hồ Nam, các cảnh quan khác như bích họa Đôn Hoàng, tạc đá Vân Cương, tứ đại danh sơn, kỳ quan Ngũ Nhạc, cho đến chùa Bạch Mã ở Lạc Dương, chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn, Thiên Phật Nhai ở núi Thê Hà Nam Kinh, Cung Bố- đạt-lạp (the Potala Palace) ở Tây Tạng, Phật Quang Sơn ở Đài Loan, chùa Ngô Ca (Vrah Vishnulok) ở Cambodia, Phù-đồ-bà-la (Borobudur, cũng gọi là Thiên Phật Đàn) ở Indonesia, tháp Đại Kim ở Miến Điện, chùa Phật Nha ở Tích Lan… , mỗi nơi đều ẩn chứa tính độc đáo, bản sắc rất riêng mang màu sắc tín ngưỡng văn hóa của họ.

Những giá trị nghệ thuật về chạm trổ hang đá, hội họa tượng Phật, kiến trúc chùa tháp, đến nay trở thành “báu vật” của toàn nhân loại. Ông Trương Kỳ Vân (1900 -1985), người sáng lập Trường Đại học Văn hóa Trung Quốc tại Đài Loan nói rằng: Phật giáo Trung Quốc trước đây thiếu việc hoằng pháp giảng kinh, tuy vậy vẫn có nhiều người tin theo Phật giáo, là bởi vì các công trình kiến trúc có chùa chiền, có Phật tượng, có nội hàm tuyên thuyết pháp âm hòa bình cho chúng sinh, cho nên có thể giáo hóa hướng dẫn nhân tâm.

Những phát triển về sự nghiệp ngành du lịch của các nước trên khắp thế giới ngày nay, không chỉ các thánh địa Phật giáo Trung Quốc mới có khách tham quan nhiều như cá diếc qua sông, mà các nơi khác như Nhật Bản (2), Hàn Quốc (3), Thái Lan (4),… cũng là điểm du lịch có lượng người hành hương như dệt, trong đó đặc biệt nhất là quốc gia Ấn Độ – nơi mà Đức Phật từng có nhân duyên hoằng hóa sâu sắc nhất có lượng người hành hương rất lớn: như vườn Lâm-tì-ni (Lumbini) nơi Đức Phật ra đời, cây cổ thụ ở Bồ- đề-già-gia (Buddhagaya) là nơi Đức Phật giác ngộ đạo giải thoát, vườn Lộc dã (Mrgadava) nơi Đức Phật chuyển pháp luân đầu tiên, cho đến thành Câu-thi na-la (Kuśinagara) nơi Đức Phật nhập Niết-bàn (Nirvāna), hay tinh xá Kỳ Viên (Jetavana Vihara), thành Ngọc Xá (Rajagrha), A-khương- đạt (Ajanta), núi Linh Thứu (Gijjhakuta), tinh xá Trúc Lâm (Veṇuvana), đều là thánh địa Phật giáo khiến con người luôn ngưỡng vọng hướng về.

Tiếp đó, đến Hàn Quốc thăm viếng chùa Tam Bảo có lịch sử trên ngàn năm, như chùa Phật Bảo Thông Độ, chùa Pháp Bảo Hải Ấn, chùa Tăng Bảo Tùng Quảng; ngoài ra còn có chùa Quan Âm Đạo Tràng Lạc Sơn gần biển, cũng đặc biệt có nét hiện đại độc đáo. Đến Nhật Bản tham quan các chùa Đường Chiêu Đề, chùa Dược Sư, chùa Đông Đại ở cố đô Nại Lương được ghi chép trong lịch sử, đều là danh lam chan chứa phong cách cổ, trứ danh cả thế giới. Đến Thái Lan thì có chùa Ngọc Phật, chùa Đại Lý Thạch, chùa Trịnh Ngọc, chùa Pháp Thân, nhất là tiện đường dạo chơi bên bờ sông Mê Nam (Chao Phray, một nhánh của dòng Mekong), càng có thể làm cho cuộc lữ trình của du khách thêm phần thơ mộng và ý vị.

Với một hành giả Phật giáo, hành cước du phương chính là một kiểu đi đây đi đó tham học khắp mọi phương xứ, một hình thức tầm sư phỏng đạo, cũng là một sự trải nghiệm trong đời sống. Mỗi lúc đến một thắng địa ở một quốc gia nào đó, đều cần phải dùng “tâm” để tìm hiểu phong tục tập quán, văn hóa lịch sử, phương thức sinh hoạt, một mặt mở rộng tầm nhìn, mặt khác quán chiếu tự tâm, bởi vì non xanh nước biếc, tùng lâm thảo mộc…, không chỗ nào không bao hàm trong một bộ đại thư “sinh mệnh” này; “vũ trụ đại thiên, nhân gian bách thái”, không một “ngõ ngách” nào không phải là cơ hội để thực hành tham thiền ngộ đạo. Cho nên, du ngoạn du lịch hành hương cũng có thể nói là thông qua học tập quan sát, đạt được quang minh, tâm khai ý tỏ. „

Nguồn: Phật giáo và thế tục, in trong bộ sách Phật học giáo khoa thư của Đại sư Tinh Vân, NXB. Từ Thư Thượng Hải, năm 2008, trang 43 – 46

1. Còn có tên là Mạch Tích Nhai, một trong những hang đá nổi tiếng của Trung Quốc; nằm ở phía Đông nam, cách thành phố Thiên Thủy, tỉnh Cam Túc khoảng 45km.

2. Nhật Bản lấy Phật giáo làm quốc giáo, khắp nơi đều có thể thấy tự viện Phật giáo trang nghiêm, ví dụ: Kiến trúc chùa Dược Sư giống như long cung, chùa Pháp Long là kiến trúc được tạo nên bằng gỗ cổ xưa nhất hiện đang tồn tại trên thế giới hiện nay, Kim Đường của chùa Đông Đại là đại Phật điện được tạo bằng gỗ lớn nhất trên thế giới hiện nay. Ngoài ra, còn có rất nhiều tự viện, đạo tràng có giá trị du lịch, hành hương khác, cụ thể như chùa Đường Chiêu Đề, chùa Hưng Phước, chùa Vĩnh Bình, chùa Cao Sơn, chùa Bổn Nguyện, chùa Tổng Trì, chùa Hiếu Ân, chùa Tứ Thiên Vương, chùa Kim Các, chùa Trung Quan, chùa Thanh Thủy…

3. Phật giáo Hàn Quốc được truyền vào từ Trung Quốc trong khoảng năm 327 Công nguyên, đến nay đã có hơn 1.600 năm, tín ngưỡng Phật giáo đã đặt nền móng văn hóa bền vững cho xứ Kim chi, cũng đã lưu lại nhiều tài nguyên du lịch hành hương cho xứ sở này.

4. Thái Lan là quốc gia Phật giáo “kim bích huy hoàng” (nguy nga lộng lẫy), tự viện là cột mốc quan trọng nhất Thái Lan, chỉ tính riêng Băng-cốc đã có tới 300 ngôi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2017(Xem: 120937)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 15616)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
20/03/2017(Xem: 10914)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
22/12/2016(Xem: 24376)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13225)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
30/04/2016(Xem: 15576)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 31494)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
26/01/2016(Xem: 12197)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
26/09/2015(Xem: 6780)
Cây bạch đàn là cây cao và có cành lá xum xuê nhất khu vực này. Tiếng chim kêu hót vang lừng mỗi sáng là từ trên những cành cao của cây này. Xa hơn, ở đầu đường, có hai cây cau dừa (cây cọ — palm tree), cao hơn cây bạch đàn nhiều, nhưng chim không làm tổ trên ấy (không hiểu vì sao; có lẽ vì cây quá cao, hoặc ở đó có nhiều tranh chấp, hiểm nguy hơn). Nơi cây bạch đàn, có ít nhất vài tổ chim, khác loại. Đúng là “đất lành chim đậu.” Có lần nghe tiếng quạ kêu bất thường, tưởng là quạ đến đuổi phá các loài chim khác, nào ngờ quạ bị chim đuổi. Rõ ràng là hai con chim trắng, thân nhỏ, lại rượt đuổi mấy con quạ đen to gấp ba lần. Không chỉ đuổi khỏi cây bạch đàn, mà đuổi thật xa, tít trên không trung, nhào lộn ngoạn mục, đuổi khỏi khu vực, đuổi khuất tận dãy phố bên kia đường. Thế mới biết, quạ tuy thân to lớn, bộ dạng dữ dằn, tiếng kêu rùng rợn ma quái so với các loài chim hiền lành khác, mà khi lâm trận thì lại không có chút dũng khí hay tinh thần chiến đấu nào. Quạ chỉ giỏi tấn công nhữn
24/06/2015(Xem: 26708)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567