Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 8: Luận lý về từ bi

12/11/201017:43(Xem: 8536)
Chương 8: Luận lý về từ bi


Chương8

LUÂNLÝ VỀ TỪ BI

Chúngta đã ghi nhận trước đây rằng mọi tôn giáo chính trênthế giới đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việcvun bồi tình thương và tâm từ bi. Trong truyền thống triếtlý Phật giáo, các trình độ thành đạt khác nhau được môtả. Ở trình độ căn bản, từ bi (nying je) được hiểu theonghĩa chủ yếu là thiện cảm (hoặc cảm thông) — khả năngđi vào, và ở một mức độ nào đó, chia sẻ đau khổ củangười khác. Nhưng Phật giáo — và có thể các tôn giáo khác— tin rằng khả năng này có thể phát triển đến một trìnhđộ không những từ bi khởi dậy chẳng cần chút cố gắng,mà còn vô điều kiện, vô phân biệt, và ở một phạm vitoàn cầu. Một tình cảm mật thiết đối với tất cả chúngsanh muôn loài, dĩ nhiên kể cả những kẻ làm hại ta, đượcphát ra, tương tự như tình yêu của người mẹ dành cho đứacon duy nhất.

Nhưngý nghĩa về sự bình hòa đối với tất cả mọi người khôngthể xem như đi đến một điểm kết. Đúng hơn, nó còn đượcxem như một thứ lò xo đẩy bật lên một tình yêu cao cảhơn nữa. Bởi vì khả năng thiện cảm vốn nội tại, vàlý luận cũng là cơ năng nội tại, từ bi chia sẻ cùng cácđặc điểm với chính tâm thức. Vì thế, chúng ta có khảnăng triển khai từ bi rất vững chắc và liên tục. Đó khôngphải là một nguồn có thể dùng cạn — như nước bị cạnkhi ta đun sôi. Và mặc dù từ bi có thể được mô tả nhưmột sinh hoạt, nhưng lại không giống như sinh hoạt vật lý,chẳng hạn như nhảy cao, chỉ rèn luyện được đến mộtmức độ nào đó không thể vượt hơn.

Tráilại, khi tăng tiến sự nhạy cảm trước khổ đau của thanhân qua sự rộng mở tâm, cá nhân đồng thời triển khaiđược từ bi đến mức có thể rất cảm động chỉ vì mộtnỗi khổ vi tế nhất của tha nhân, do ý thức trách nhiệmđối với họ. Điều này khiến người có tâm từ bi sẽtận hiến hầu giúp đỡ kẻ khác thoát khổ lẫn các duyêntạo khổ. Ở Tây tạng, trình độ tối thượng này đượcgọi là nying je chenno, dịch sát nghĩa là "đại từ bi".

Ởđây, không phải tôi đề nghị mỗi cá nhân đều phải đạtđến trạng thái cao của sự phát huy tâm linh mới dẫn đếnmột đời sống thiện lành. Tôi đã mô tả nying je chenno khôngphải vì đó là điều kiện tiên khởi của hành vi luân lý,đúng ra vì tôi tin khi đưa lý luận về từ bi đến trìnhđộ cao nhất có thể biến thành một nguồn cảm hứng mãnhliệt. Nếu chúng ta chỉ cần giữ cảm hứng đó để triểnkhai nying je chenno, hoặc đại từ bi, như một lý tưởng, tựnhiên nó sẽ có một tầm ảnh hưởng quan trọng đến quanđiểm của ta. Căn cứ trên nhận thức đơn giản là, cũngnhư tôi, mọi người khác đều muốn hạnh phúc và tránh đaukhổ, cho nên cần sử dụng nó như một sự nhắc nhở thườngxuyên chống lại ích kỷ và phân biệt. Nó nhắc nhở rằng,nếu ta tử tế và rộng rãi chỉ vì hy vọng sẽ được báođáp, thì chỉ thu hoạch rất ít ỏi. Nó nhắc nhở rằng,các hành có động cơ cầu vọng danh thơm cho mình vẫn còních kỷ, tuy rằng bề ngoài trông như hành vi tử tế. Nó cònnhắc nhở rằng, không có gì đặc biệt trong các hành độngtừ thiện đối với các người thân thuộc. Và nó giúp chúngta nhận thức thiên kiến dành cho gia đình và bạn bè, vốnlà điều không đáng tin cậy hầu thẩm định hành vi luânlý. Nếu chỉ dành hành vi luân lý cho các người ta cảm thấythân thuộc, nguy cơ là ta sẽ bỏ quên bổn phận đối vớinhững người bên ngoài vòng.

Tạisao thế? Một khi các cá nhân đó tiếp tục đáp ứng kỳvọng của ta, thì mọi việc tốt đẹp. Nhưng nếu họ làmhỏng, thì người mà ta xem như bạn thân hôm nay, ngày kia cóthể trở thành kẻ thù tệ hại nhất. Như chúng ta từng thấy,ta có xu hướng phản ứng xấu đối với tất cả ngườitạo đe dọa khiến ta không được thỏa mãn các ham muốnthân yêu nhất, cho dù họ là thân cận của ta. Từ lý do đó,từ bi và tương kính đề ra một căn bản vững chắc hơncho liên hệ con người. Điều này đúng trong tình bạn đời.Nếu tình yêu ta dành cho người nào đặt căn bản trên sựhấp dẫn, cho dù đó là bề ngoài hoặc các đặc điểm giảtạo nào đó, thì cảm tình ta dành cho người đó sẽ tan biếnqua thời gian. Khi họ mất đi phẩm chất ta cảm thấy là quyếnrũ, tình trạng có thể hoàn toàn thay đổi, mặc dù họ vẫncùng là một người. Đó là tại sao liên hệ đặt nền tảngthuần trên sự hấp dẫn vốn bất định. Mặt khác, khi tabắt đầu kiện toàn lòng từ bi, thì bề ngoài hoặc tháiđộ của người đó không ảnh hưởng đến cách cư xử bêntrong của ta.

Lạinữa, cảm tình của ta đối với người khác thường tùythuộc nhiều vào hoàn cảnh của họ. Đa số người ta, khinhìn thấy kẻ tàn tật, đều cảm thông cho họ. Nhưng khithấy người giàu có hơn mình, hoặc học thức hơn, hoặccó địa vị cao, lập tức sẽ cảm thấy ganh tỵ và cạnhtranh cùng họ. Cảm xúc tiêu cực sẽ ngăn chúng ta không nhìnthấy sự giống nhau giữa chúng ta và người khác. Chúng taquên rằng, cũng như ta, dù may dù rủi, dù xa dù gần, họcũng đều mong hạnh phúc và tránh đau khổ.

Nhưthế, mục đích của phấn đấu là để vượt khỏi các cảmxúc thiên lệch đó. Chắc chắn, triển khai được từ bi chânthật cho các người thân yêu vẫn là nơi chốn hiện thậtvà thích đáng để bắt đầu. Ảnh hưởng của hành độngchúng ta trên người thân thường lớn hơn trên kẻ khác, dođó, trách nhiệm của ta đối với họ cũng nặng hơn. Dùvậy, ta cần nhìn nhận rằng, cuối cùng, không có nền tảngnào để thiên vị dành ưu quyền cho họ. Trong ý nghĩa này,chúng ta tất cả đều đứng ở vị trí của một y sĩ trướcmười bệnh nhân cùng mắc phải một chứng bệnh. Họ đềuđáng được trị liệu ngang bằng nhau. Tuy nhiên, điều đượcbiện luận ở đây không phải là trạng thái lạnh nhạt cáchbiệt. Thách đố căn bản khác, khi ta bắt đầu nới rộngtừ bi đến tất cả mọi người, là bảo quản được cùngmột trình độ thân thiết mà ta cảm thấy cho các ngườigần nhất. Nói cách khác, điều đề nghị là ta cần phảiphấn đấu cho sự bình hòa trong khuynh hướng dành cho tấtcả mọi người, ở một mức độ nền móng trên đó ta cóthể gieo hạt giống của nying je chenno , của đại từ vàđại bi.

Nếuchúng ta có thể bắt đầu liên hệ với người khác trêncăn bản bình hòa như thế, từ bi sẽ không còn tùy thuộcvào sự kiện người này là chồng tôi, người kia là vợtôi, thân nhân, bạn bè... Đúng hơn, một cảm giác thân thuộcđối với tất cả mọi người sẽ phát triển trên nhậnthức đơn thuần là, cũng như tôi tất cả đều muốn hạnhphúc và tránh đau khổ. Nói cách khác, chúng ta sẽ khởi sựliên hệ cùng người khác trên nền tảng họ là chúng sanh.Chúng ta có thể nghĩ về điều đó như một lý tưởng, mộtđiều rất khó đạt đến. Nhưng theo tôi, điều đó là nguồncảm hứng vô cùng sâu xa và lợi lạc.

Giờta thử quán xét vai trò của tâm từ bi và lòng tử tế trongđời sống hàng ngày. Có phải lý tưởng phát huy nó đếnmức trở thành vô điều kiện có nghĩa là ta phải bỏ trọnvẹn các lợi ích cá nhân? Không hẳn vậy. Trái lại, đólà cách tốt nhất để phục vụ chúng — đúng ra có thểbảo đó là xây dựng cách trọn vẹn cho tự lợi khôn ngoannhất. Bởi vì nếu xác nhận các phẩm tánh như tình thương,nhẫn nại, bao dung và tha thứ là thành phần của hạnh phúc,thì cũng có thể xác nhận nying je, tức từ bi, vừa là cănnguồn vừa là kết quả của các phẩm tánh đó; như thế,khi ta càng từ bi, thì lại càng cung ứng nhiều cho hạnh phúc.Mọi ý tưởng có liên hệ các tha nhân nếu chỉ thuộc phạmvi đời sống cá nhân, cho dù đó là một phẩm tánh cao thượng,cũng chỉ thành thiển cận. Từ bi nằm trong từng phạm vicủa sinh hoạt, bao gồm cả nơi làm việc.

Ởđây, tôi phải nói đến một nhận thức được nhiều ngườinhìn nhận là, từ bi, nếu không phải là một chướng ngại,thì ít ra cũng là điều không thích hợp cho đời sống nghiệpvụ. Cá nhân tôi nghĩ rằng, chẳng những thích hợp, mà nếuthiếu từ bi, sinh hoạt của chúng ta bị đe dọa hủy hoại.Điều này là vì, khi ta bỏ quên vấn đề ảnh hưởng củahành động đối với an sinh của người khác, ta không thểnào tránh khỏi làm hại đến họ. Luân lý của từ bi giúptạo ra một nền tảng và động cơ cần thiết cho cả giớiluật lẫn vun bồi đức hạnh. Khi ta bắt đầu thật sự quýtrọng giá trị của từ bi, nhãn quan của ta đối với ngườikhác tự động thay đổi. Chỉ riêng điều này có thể làtạo một ảnh hưởng mạnh mẽ đến hành vi trong đời sốngcủa ta. Chẳng hạn như, khi cám dỗ của sự lừa đảo ngườikhác khởi dậy, từ bi dành cho họ sẽ ngăn ta không thựchiện ý định. Và khi nhận thức được việc làm của mìnhcó thể đang bị nguy cơ do kẻ khác lợi dụng, từ bi sẽgiúp ta tháo gỡ khỏi khó khăn đó. Thử tưởng tượng trườnghợp một khoa học gia đang nghiên cứu một việc có thể trởthành nguồn đau khổ cho người khác, nhờ từ bi, họ sẽnhận ra và hành động thích đáng, thậm chí có thể bỏ luôncả kế hoạch.

Tôikhông phủ nhận vấn đề thật sự có thể khởi dậy khita tận hiến đời mình cho lý tưởng từ bi. Trong trườnghợp khoa học gia tiếp tục làm việc theo chiều hướng cũ,có thể tạo thành các hậu quả nghiêm trọng cho chính họvà gia đình. Cũng thế, những người làm các dịch vụ chămsóc — y tế, cố vấn, xã hội, vân vân — hoặc những ngườitrông nom tại nhà đôi khi có thể mệt mỏi vì công tác vượtquá sức mình. Sự tiếp xúc thường xuyên cùng đau khổ, đôilúc sẽ tạo nên một cảm xúc như phải chịu đựng, có khiđi đến cảm thấy mất năng lực, và tuyệt vọng. Hoặc trongtrường hợp cá nhân làm hành động tử tế đó chỉ vì côngtác phải làm — chỉ làm theo vận chuyển đòi hỏi. Dĩ nhiêncòn tốt hơn là không có mục tiêu gì.

Nhưngnếu không tự kiểm thảo, việc này có thể dẫn đến sựmất cảm giác đối với đau khổ của người khác. Nếu nókhởi sự, tốt hơn là nên tạm rời bỏ một thời gian, vànỗ lực cẩn trọng hầu đánh thức sự nhạy cảm đó. Cầnnên nhớ rằng tuyệt vọng không bao giờ là một giải pháp.Điều đó, theo một thành ngữ Tây tạng nói, ngay dù sợidây bị đứt làm chín khúc, ta cũng phải nối nó lại mườilần. Bằng cách đó, cho dù đến cuối cùng ta vẫn thất bại,ít nhất sẽ không có cảm xúc hối tiếc. Và khi phối hợpcái nhìn này cùng một sự nhận thức rõ rệt về khả nănglợi tha của mình, ta sẽ có thể bắt đầu vãn hồi hy vọngvà tự tin.

Vàingười có thể phản đối lý tưởng này trên căn bản là,khi đi vào nỗi khổ của tha nhân, ta sẽ mang lại khổ chochính mình. Ở một hạn định nào đó, điều đó đúng. Nhưngtôi đề khởi rằng, không ó một phân biệt thẩm định chủyếu nào giữa kinh nghiệm khổ của chính ta và kinh nghiệmkhổ khi chia sẻ cùng người khác. Trong trường hợp nỗi khổcủa riêng ta, cho là không tự nguyện đi, vẫn có một cảmthức bị áp chế: dường như nó đến từ bên ngoài ta.

Ngượclại, chia sẻ đau khổ cùng người khác có một trình độtự nguyện nào đó, nhưng tự nó cho thấy một thứ nội lực.Vì lý do đó, sự phiền nhiễu nó tạo nên còn ít khiến chota cảm thấy phân liệt hơn là do đau khổ của riêng ta.

Đươngnhiên, cho dù là một lý tưởng, khái niệm về phát huy từbi vô điều kiện rất dễ gây nản lòng. Hầu hết mọi người,kể cả tôi, phải tranh đấu mới có thể đạt đến điểmdễ dàng đặt lợi ích của kẻ khác ngang hàng với lợi íchcủa mình. Tuy nhiên, chúng ta không thể để cho điều đókhiến ta bỏ cuộc. Và trong khi chắc chắn có nhiều trở lựctrên con đường phát huy được một trái tim thật sự ấmáp, ta lại có một sự an ủi sâu xa khi biết được làm nhưthế ta đang tạo các điều kiện cho hạnh phúc của chínhmình. Như tôi đã nói đến, khi ta càng thật lòng mong muốnlợi tha, thì năng lực và tự tin càng được phát huy, vàta sẽ được kinh nghiệm càng lớn lao về an bình và hạnhphúc. Nếu còn nghi ngờ, thử đặt câu hỏi còn có cách nàokhác chăng. Với bạo lực và tranh chấp? Dĩ nhiên là không.Với tiền tài? Có thể đến một mức nào đó, nhưng khôngxa hơn. Nhưng với tình thương yêu, chia sẻ đau khổ của ngườikhác, nhận thức rõ rệt sự hòa đồng cùng người khác —đặc biệt là các người không may và không được tôn trọngnhân quyền — bằng cách giúp đỡ họ hạnh phúc: đúng vậy.Qua tình thương, qua lòng tốt, qua từ bi, chúng ta thiết lậpsự hiểu biết giữa ta và người. Đó là cách rèn luyệnsự hợp nhất và hài hòa.

Từbi và thương yêu không phải là các xa xỉ phẩm. Đó là nguồnan bình cả bên trong lẫn bên ngoài, nền tảng cho sự tồntục của loài người. Một mặt, chúng thiết lập hành độngbất bạo lực. Mặt khác, chúng là nguồn cội của tất cảcác phẩm chất tâm linh: của tha thứ, bao dung, và mọi phẩmtánh khác. Hơn nữa, đây quả thật là điều mang lại ý nghĩacho mọi sinh hoạt của ta, tạo tính cách xây dựng. Không cógì lạ khi học cao; không có gì lạ khi giàu có. Chỉ có cánhân với một trái tim ấm áp mới có thể làm các điềuthật sự có giá trị.

Đốivới các vị cho rằng Đạt lai Lạt ma thiếu thực tế khibiện luận cho thứ lý tưởng về tình thương vô điều kiện,tôi mời gọi họ hãy thử kinh nghiệm cùng nó. Họ sẽ khámphá ra rằng, khi chúng ta vượt trên sự hạn hẹp gò bó củangã lợi, trái tim ta sẽ ngập tràn một thứ năng lực. Anbình và niềm vui sẽ trở thành bạn hữu thường trực củata. Nó phá vỡ mọi thứ hàng rào và cuối cùng tiêu hủy kháiniệm về ngã lợi vốn dĩ độc lập cùng tha lợi. Nhưng quantrọng nhất, ít ra trên bình diện luân lý, nơi nào có đượctình thương, sự quý trọng, lòng tốt và tâm từ bi dành chođồng loại, nơi đó sẽ tự động có hành vi luân lý. Cáchành động luân lý thiện lành khởi dậy tự nhiên trong khuônkhổ của từ bi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/11/2021(Xem: 11874)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12359)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 15249)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 12070)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16987)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12744)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7938)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 20414)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11807)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9250)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567