Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 8: Luận lý về từ bi

12/11/201017:43(Xem: 8481)
Chương 8: Luận lý về từ bi


Chương8

LUÂNLÝ VỀ TỪ BI

Chúngta đã ghi nhận trước đây rằng mọi tôn giáo chính trênthế giới đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việcvun bồi tình thương và tâm từ bi. Trong truyền thống triếtlý Phật giáo, các trình độ thành đạt khác nhau được môtả. Ở trình độ căn bản, từ bi (nying je) được hiểu theonghĩa chủ yếu là thiện cảm (hoặc cảm thông) — khả năngđi vào, và ở một mức độ nào đó, chia sẻ đau khổ củangười khác. Nhưng Phật giáo — và có thể các tôn giáo khác— tin rằng khả năng này có thể phát triển đến một trìnhđộ không những từ bi khởi dậy chẳng cần chút cố gắng,mà còn vô điều kiện, vô phân biệt, và ở một phạm vitoàn cầu. Một tình cảm mật thiết đối với tất cả chúngsanh muôn loài, dĩ nhiên kể cả những kẻ làm hại ta, đượcphát ra, tương tự như tình yêu của người mẹ dành cho đứacon duy nhất.

Nhưngý nghĩa về sự bình hòa đối với tất cả mọi người khôngthể xem như đi đến một điểm kết. Đúng hơn, nó còn đượcxem như một thứ lò xo đẩy bật lên một tình yêu cao cảhơn nữa. Bởi vì khả năng thiện cảm vốn nội tại, vàlý luận cũng là cơ năng nội tại, từ bi chia sẻ cùng cácđặc điểm với chính tâm thức. Vì thế, chúng ta có khảnăng triển khai từ bi rất vững chắc và liên tục. Đó khôngphải là một nguồn có thể dùng cạn — như nước bị cạnkhi ta đun sôi. Và mặc dù từ bi có thể được mô tả nhưmột sinh hoạt, nhưng lại không giống như sinh hoạt vật lý,chẳng hạn như nhảy cao, chỉ rèn luyện được đến mộtmức độ nào đó không thể vượt hơn.

Tráilại, khi tăng tiến sự nhạy cảm trước khổ đau của thanhân qua sự rộng mở tâm, cá nhân đồng thời triển khaiđược từ bi đến mức có thể rất cảm động chỉ vì mộtnỗi khổ vi tế nhất của tha nhân, do ý thức trách nhiệmđối với họ. Điều này khiến người có tâm từ bi sẽtận hiến hầu giúp đỡ kẻ khác thoát khổ lẫn các duyêntạo khổ. Ở Tây tạng, trình độ tối thượng này đượcgọi là nying je chenno, dịch sát nghĩa là "đại từ bi".

Ởđây, không phải tôi đề nghị mỗi cá nhân đều phải đạtđến trạng thái cao của sự phát huy tâm linh mới dẫn đếnmột đời sống thiện lành. Tôi đã mô tả nying je chenno khôngphải vì đó là điều kiện tiên khởi của hành vi luân lý,đúng ra vì tôi tin khi đưa lý luận về từ bi đến trìnhđộ cao nhất có thể biến thành một nguồn cảm hứng mãnhliệt. Nếu chúng ta chỉ cần giữ cảm hứng đó để triểnkhai nying je chenno, hoặc đại từ bi, như một lý tưởng, tựnhiên nó sẽ có một tầm ảnh hưởng quan trọng đến quanđiểm của ta. Căn cứ trên nhận thức đơn giản là, cũngnhư tôi, mọi người khác đều muốn hạnh phúc và tránh đaukhổ, cho nên cần sử dụng nó như một sự nhắc nhở thườngxuyên chống lại ích kỷ và phân biệt. Nó nhắc nhở rằng,nếu ta tử tế và rộng rãi chỉ vì hy vọng sẽ được báođáp, thì chỉ thu hoạch rất ít ỏi. Nó nhắc nhở rằng,các hành có động cơ cầu vọng danh thơm cho mình vẫn còních kỷ, tuy rằng bề ngoài trông như hành vi tử tế. Nó cònnhắc nhở rằng, không có gì đặc biệt trong các hành độngtừ thiện đối với các người thân thuộc. Và nó giúp chúngta nhận thức thiên kiến dành cho gia đình và bạn bè, vốnlà điều không đáng tin cậy hầu thẩm định hành vi luânlý. Nếu chỉ dành hành vi luân lý cho các người ta cảm thấythân thuộc, nguy cơ là ta sẽ bỏ quên bổn phận đối vớinhững người bên ngoài vòng.

Tạisao thế? Một khi các cá nhân đó tiếp tục đáp ứng kỳvọng của ta, thì mọi việc tốt đẹp. Nhưng nếu họ làmhỏng, thì người mà ta xem như bạn thân hôm nay, ngày kia cóthể trở thành kẻ thù tệ hại nhất. Như chúng ta từng thấy,ta có xu hướng phản ứng xấu đối với tất cả ngườitạo đe dọa khiến ta không được thỏa mãn các ham muốnthân yêu nhất, cho dù họ là thân cận của ta. Từ lý do đó,từ bi và tương kính đề ra một căn bản vững chắc hơncho liên hệ con người. Điều này đúng trong tình bạn đời.Nếu tình yêu ta dành cho người nào đặt căn bản trên sựhấp dẫn, cho dù đó là bề ngoài hoặc các đặc điểm giảtạo nào đó, thì cảm tình ta dành cho người đó sẽ tan biếnqua thời gian. Khi họ mất đi phẩm chất ta cảm thấy là quyếnrũ, tình trạng có thể hoàn toàn thay đổi, mặc dù họ vẫncùng là một người. Đó là tại sao liên hệ đặt nền tảngthuần trên sự hấp dẫn vốn bất định. Mặt khác, khi tabắt đầu kiện toàn lòng từ bi, thì bề ngoài hoặc tháiđộ của người đó không ảnh hưởng đến cách cư xử bêntrong của ta.

Lạinữa, cảm tình của ta đối với người khác thường tùythuộc nhiều vào hoàn cảnh của họ. Đa số người ta, khinhìn thấy kẻ tàn tật, đều cảm thông cho họ. Nhưng khithấy người giàu có hơn mình, hoặc học thức hơn, hoặccó địa vị cao, lập tức sẽ cảm thấy ganh tỵ và cạnhtranh cùng họ. Cảm xúc tiêu cực sẽ ngăn chúng ta không nhìnthấy sự giống nhau giữa chúng ta và người khác. Chúng taquên rằng, cũng như ta, dù may dù rủi, dù xa dù gần, họcũng đều mong hạnh phúc và tránh đau khổ.

Nhưthế, mục đích của phấn đấu là để vượt khỏi các cảmxúc thiên lệch đó. Chắc chắn, triển khai được từ bi chânthật cho các người thân yêu vẫn là nơi chốn hiện thậtvà thích đáng để bắt đầu. Ảnh hưởng của hành độngchúng ta trên người thân thường lớn hơn trên kẻ khác, dođó, trách nhiệm của ta đối với họ cũng nặng hơn. Dùvậy, ta cần nhìn nhận rằng, cuối cùng, không có nền tảngnào để thiên vị dành ưu quyền cho họ. Trong ý nghĩa này,chúng ta tất cả đều đứng ở vị trí của một y sĩ trướcmười bệnh nhân cùng mắc phải một chứng bệnh. Họ đềuđáng được trị liệu ngang bằng nhau. Tuy nhiên, điều đượcbiện luận ở đây không phải là trạng thái lạnh nhạt cáchbiệt. Thách đố căn bản khác, khi ta bắt đầu nới rộngtừ bi đến tất cả mọi người, là bảo quản được cùngmột trình độ thân thiết mà ta cảm thấy cho các ngườigần nhất. Nói cách khác, điều đề nghị là ta cần phảiphấn đấu cho sự bình hòa trong khuynh hướng dành cho tấtcả mọi người, ở một mức độ nền móng trên đó ta cóthể gieo hạt giống của nying je chenno , của đại từ vàđại bi.

Nếuchúng ta có thể bắt đầu liên hệ với người khác trêncăn bản bình hòa như thế, từ bi sẽ không còn tùy thuộcvào sự kiện người này là chồng tôi, người kia là vợtôi, thân nhân, bạn bè... Đúng hơn, một cảm giác thân thuộcđối với tất cả mọi người sẽ phát triển trên nhậnthức đơn thuần là, cũng như tôi tất cả đều muốn hạnhphúc và tránh đau khổ. Nói cách khác, chúng ta sẽ khởi sựliên hệ cùng người khác trên nền tảng họ là chúng sanh.Chúng ta có thể nghĩ về điều đó như một lý tưởng, mộtđiều rất khó đạt đến. Nhưng theo tôi, điều đó là nguồncảm hứng vô cùng sâu xa và lợi lạc.

Giờta thử quán xét vai trò của tâm từ bi và lòng tử tế trongđời sống hàng ngày. Có phải lý tưởng phát huy nó đếnmức trở thành vô điều kiện có nghĩa là ta phải bỏ trọnvẹn các lợi ích cá nhân? Không hẳn vậy. Trái lại, đólà cách tốt nhất để phục vụ chúng — đúng ra có thểbảo đó là xây dựng cách trọn vẹn cho tự lợi khôn ngoannhất. Bởi vì nếu xác nhận các phẩm tánh như tình thương,nhẫn nại, bao dung và tha thứ là thành phần của hạnh phúc,thì cũng có thể xác nhận nying je, tức từ bi, vừa là cănnguồn vừa là kết quả của các phẩm tánh đó; như thế,khi ta càng từ bi, thì lại càng cung ứng nhiều cho hạnh phúc.Mọi ý tưởng có liên hệ các tha nhân nếu chỉ thuộc phạmvi đời sống cá nhân, cho dù đó là một phẩm tánh cao thượng,cũng chỉ thành thiển cận. Từ bi nằm trong từng phạm vicủa sinh hoạt, bao gồm cả nơi làm việc.

Ởđây, tôi phải nói đến một nhận thức được nhiều ngườinhìn nhận là, từ bi, nếu không phải là một chướng ngại,thì ít ra cũng là điều không thích hợp cho đời sống nghiệpvụ. Cá nhân tôi nghĩ rằng, chẳng những thích hợp, mà nếuthiếu từ bi, sinh hoạt của chúng ta bị đe dọa hủy hoại.Điều này là vì, khi ta bỏ quên vấn đề ảnh hưởng củahành động đối với an sinh của người khác, ta không thểnào tránh khỏi làm hại đến họ. Luân lý của từ bi giúptạo ra một nền tảng và động cơ cần thiết cho cả giớiluật lẫn vun bồi đức hạnh. Khi ta bắt đầu thật sự quýtrọng giá trị của từ bi, nhãn quan của ta đối với ngườikhác tự động thay đổi. Chỉ riêng điều này có thể làtạo một ảnh hưởng mạnh mẽ đến hành vi trong đời sốngcủa ta. Chẳng hạn như, khi cám dỗ của sự lừa đảo ngườikhác khởi dậy, từ bi dành cho họ sẽ ngăn ta không thựchiện ý định. Và khi nhận thức được việc làm của mìnhcó thể đang bị nguy cơ do kẻ khác lợi dụng, từ bi sẽgiúp ta tháo gỡ khỏi khó khăn đó. Thử tưởng tượng trườnghợp một khoa học gia đang nghiên cứu một việc có thể trởthành nguồn đau khổ cho người khác, nhờ từ bi, họ sẽnhận ra và hành động thích đáng, thậm chí có thể bỏ luôncả kế hoạch.

Tôikhông phủ nhận vấn đề thật sự có thể khởi dậy khita tận hiến đời mình cho lý tưởng từ bi. Trong trườnghợp khoa học gia tiếp tục làm việc theo chiều hướng cũ,có thể tạo thành các hậu quả nghiêm trọng cho chính họvà gia đình. Cũng thế, những người làm các dịch vụ chămsóc — y tế, cố vấn, xã hội, vân vân — hoặc những ngườitrông nom tại nhà đôi khi có thể mệt mỏi vì công tác vượtquá sức mình. Sự tiếp xúc thường xuyên cùng đau khổ, đôilúc sẽ tạo nên một cảm xúc như phải chịu đựng, có khiđi đến cảm thấy mất năng lực, và tuyệt vọng. Hoặc trongtrường hợp cá nhân làm hành động tử tế đó chỉ vì côngtác phải làm — chỉ làm theo vận chuyển đòi hỏi. Dĩ nhiêncòn tốt hơn là không có mục tiêu gì.

Nhưngnếu không tự kiểm thảo, việc này có thể dẫn đến sựmất cảm giác đối với đau khổ của người khác. Nếu nókhởi sự, tốt hơn là nên tạm rời bỏ một thời gian, vànỗ lực cẩn trọng hầu đánh thức sự nhạy cảm đó. Cầnnên nhớ rằng tuyệt vọng không bao giờ là một giải pháp.Điều đó, theo một thành ngữ Tây tạng nói, ngay dù sợidây bị đứt làm chín khúc, ta cũng phải nối nó lại mườilần. Bằng cách đó, cho dù đến cuối cùng ta vẫn thất bại,ít nhất sẽ không có cảm xúc hối tiếc. Và khi phối hợpcái nhìn này cùng một sự nhận thức rõ rệt về khả nănglợi tha của mình, ta sẽ có thể bắt đầu vãn hồi hy vọngvà tự tin.

Vàingười có thể phản đối lý tưởng này trên căn bản là,khi đi vào nỗi khổ của tha nhân, ta sẽ mang lại khổ chochính mình. Ở một hạn định nào đó, điều đó đúng. Nhưngtôi đề khởi rằng, không ó một phân biệt thẩm định chủyếu nào giữa kinh nghiệm khổ của chính ta và kinh nghiệmkhổ khi chia sẻ cùng người khác. Trong trường hợp nỗi khổcủa riêng ta, cho là không tự nguyện đi, vẫn có một cảmthức bị áp chế: dường như nó đến từ bên ngoài ta.

Ngượclại, chia sẻ đau khổ cùng người khác có một trình độtự nguyện nào đó, nhưng tự nó cho thấy một thứ nội lực.Vì lý do đó, sự phiền nhiễu nó tạo nên còn ít khiến chota cảm thấy phân liệt hơn là do đau khổ của riêng ta.

Đươngnhiên, cho dù là một lý tưởng, khái niệm về phát huy từbi vô điều kiện rất dễ gây nản lòng. Hầu hết mọi người,kể cả tôi, phải tranh đấu mới có thể đạt đến điểmdễ dàng đặt lợi ích của kẻ khác ngang hàng với lợi íchcủa mình. Tuy nhiên, chúng ta không thể để cho điều đókhiến ta bỏ cuộc. Và trong khi chắc chắn có nhiều trở lựctrên con đường phát huy được một trái tim thật sự ấmáp, ta lại có một sự an ủi sâu xa khi biết được làm nhưthế ta đang tạo các điều kiện cho hạnh phúc của chínhmình. Như tôi đã nói đến, khi ta càng thật lòng mong muốnlợi tha, thì năng lực và tự tin càng được phát huy, vàta sẽ được kinh nghiệm càng lớn lao về an bình và hạnhphúc. Nếu còn nghi ngờ, thử đặt câu hỏi còn có cách nàokhác chăng. Với bạo lực và tranh chấp? Dĩ nhiên là không.Với tiền tài? Có thể đến một mức nào đó, nhưng khôngxa hơn. Nhưng với tình thương yêu, chia sẻ đau khổ của ngườikhác, nhận thức rõ rệt sự hòa đồng cùng người khác —đặc biệt là các người không may và không được tôn trọngnhân quyền — bằng cách giúp đỡ họ hạnh phúc: đúng vậy.Qua tình thương, qua lòng tốt, qua từ bi, chúng ta thiết lậpsự hiểu biết giữa ta và người. Đó là cách rèn luyệnsự hợp nhất và hài hòa.

Từbi và thương yêu không phải là các xa xỉ phẩm. Đó là nguồnan bình cả bên trong lẫn bên ngoài, nền tảng cho sự tồntục của loài người. Một mặt, chúng thiết lập hành độngbất bạo lực. Mặt khác, chúng là nguồn cội của tất cảcác phẩm chất tâm linh: của tha thứ, bao dung, và mọi phẩmtánh khác. Hơn nữa, đây quả thật là điều mang lại ý nghĩacho mọi sinh hoạt của ta, tạo tính cách xây dựng. Không cógì lạ khi học cao; không có gì lạ khi giàu có. Chỉ có cánhân với một trái tim ấm áp mới có thể làm các điềuthật sự có giá trị.

Đốivới các vị cho rằng Đạt lai Lạt ma thiếu thực tế khibiện luận cho thứ lý tưởng về tình thương vô điều kiện,tôi mời gọi họ hãy thử kinh nghiệm cùng nó. Họ sẽ khámphá ra rằng, khi chúng ta vượt trên sự hạn hẹp gò bó củangã lợi, trái tim ta sẽ ngập tràn một thứ năng lực. Anbình và niềm vui sẽ trở thành bạn hữu thường trực củata. Nó phá vỡ mọi thứ hàng rào và cuối cùng tiêu hủy kháiniệm về ngã lợi vốn dĩ độc lập cùng tha lợi. Nhưng quantrọng nhất, ít ra trên bình diện luân lý, nơi nào có đượctình thương, sự quý trọng, lòng tốt và tâm từ bi dành chođồng loại, nơi đó sẽ tự động có hành vi luân lý. Cáchành động luân lý thiện lành khởi dậy tự nhiên trong khuônkhổ của từ bi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/08/2019(Xem: 10733)
Trong thời Đức Bổn Sư Thích Ca còn tại thế, nhất là thời giới luật chưa được chế định, 12 năm đầu tiên sau khi Ngài thành đạo, có nhiều tỷ kheo hay cư sĩ đã liễu ngộ, giải thoát, niết bàn chỉ ngay sau một thời thuyết pháp hay một bài kệ của Tôn Sư. Tại sao họ đặt gánh nặng xuống một cách dễ dàng như vậy? Bởi vì họ đã thấu hiếu tận gốc rễ (liễu ngộ) chân đế, tự tại giải thoát, tịch lặng thường trụ, chẳng động, chẳng khởi, chẳng sanh, chẳng diệt, không đến cũng không đi mà thường sáng soi. Khi họ thấu hiểu được vậy. Kể từ lúc đó, họ tín thọ và sống theo sự hiểu biết chơn chánh này. Họ luôn tuệ tri tất cả các pháp đều huyễn hoặc, vô tự tánh cho nên, họ không chấp thủ một pháp nào và thong dong tự tại trong tất cả các pháp.
22/08/2019(Xem: 10938)
Phát Bồ đề Tâm là một pháp môn tu, nếu không hơn thì bằng chứ không kém một pháp môn nào trong tam tạng, bởi nó nói lên được cứu cánh của việc tu hành. Trong kinh Đại Phương Tiện, Phật dạy A Nan: “Phát Bồ Đề Tâm là pháp môn thù thắng giúp hành giả rút ngắn tiến trình tu tập của mình”. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật lại ân cần nhắc nhở: “Kẻ chỉ quên việc phát Bồ Đề Tâm thì việc làm Phật sự là đang làm ma sự” huống hồ là kẻ tâm không phát, nguyện không lập.
16/08/2019(Xem: 11422)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương phápgiảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau. Chúng sanh có vô lượng trần lao, phiền não, thì Phật pháp có vô lượng pháp môn tu. Nếu sử dụng đúng phương pháp thì hiệu quả giảng dạy sẽ đạt được kết quả tốt. Tri thứcPhật học là nguồn tri thức minh triết, là giáo lý để thực hành, lối sống, do đó phương pháp giảng dạy là vấn đề vô cùng cần thiết để giới thiệu nguồn tri thức minh triết ấy.
05/06/2019(Xem: 16418)
Niệm Định Tuệ Hữu Lậu & Niệm Định Tuệ Vô Lậu Phật Đản 2019 – Phật lịch 2563 Tỳ kheo Thích Thắng Giải , Ngôn ngữ là một phương tiện để diễn tả đạo lý, nhưng thể thật của đạo thì vượt ra ngoài ngôn ngữ và tất cả ý niệm. Vì vậy, một khi chúng ta liễu tri được nghĩa chân thật của đạo thì lúc đó sẽ thấu tỏ được sự diệu dụng của phương tiện ngôn ngữ. Nếu xét về nghĩa thật của đạo, đó chính là chân tâm không sinh diệt hay chánh kiến vô lậu.
10/05/2019(Xem: 13056)
Các nước phương Tây đang sống trong một thời đại bất thường: Trung Quốc trỗi dậy và uy hiếp, kinh tế khủng hoảng, nợ công cao ngất, nạn di dân đe doạ, xã hội bất bình đẳng, dân chúng nổi giận giúp đưa cho ông Trump vào Tòa Bạch Ốc và đẩy Vương Quốc Anh thống nhất ra khỏi Liên Âu. Đâu là nguyên nhân cho nền kinh tế thị trường không còn vận hành hoàn hảo và giải pháp cho hệ thống dân chủ tự do đang lâm nguy? Phần một lý giải cho vấn đề này theo quan điểm của Francis Fukuyama trong tác phẩm Identity: khủng hoảng về bản sắc của các nhóm sắc tộc là nguyên nhân, đấu tranh để công nhận nhân phẩm là
12/02/2019(Xem: 6816)
Nhà sư Nhật bản Kenjitsu Nakagaki đang tìm cách thuyết phục người Tây Phương về ý nghĩa của chữ Vạn (Swastica) mà người Nhật gọi là manji. Chẳng qua là vì những người quốc-xã (nazi) đã biến chữ này thành một biểu tượng cấm kỵ trong các nước Tây phương ngày nay. Thế nhưng chữ Vạn đã ăn sâu vào nền văn hóa của Nhật Bản từ khi Phật giáo mới được đưa vào xứ sở này, và nhà sư Nakagaki muốn nhấn mạnh với người Tây Phương là chữ Vạn với tư cách là một biểu tượng hoà bình cũng đã được sử dụng trong rất nhiều tôn giáo!
04/01/2019(Xem: 82981)
“Hiểu về trái tim” là một cuốn sách khá đặc biệt, sách do một thiền sư tên là Minh Niệm viết. Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này. Xuyên suốt cuốn sách, tác giả đã đưa ra 50 khái niệm trong cuộc sống vốn dĩ rất đời thường nhưng nếu suy ngẫm một chút chúng ta sẽ thấy thật sâu sắc như khổ đau là gì? Hạnh phúc là gì? Thành công, thất bại là gì?…. Đúng như tựa đề sách, sách sẽ giúp ta hiểu về trái tim, hiểu về những tâm trạng, tính cách sâu thẳm trong trái tim ta.
26/11/2018(Xem: 11256)
Chúng tôi đến thăm Việt Nam một vài lần, tôi nhớ có lần chúng tôi đang ở Hà Nội. Lúc đó là Đại hội Phật Giáo, tôi cũng có buổi thuyết trình cùng với những vị khác nữa. Hôm đó đang ngồi đợi, thì có một vị Thầy trẻ người Việt đến chào, sau khi hỏi từ đâu đến, tôi nói tôi đến từ Australia. Thầy ấy nói, oh… woh… vậy Thầy có biết vị Tăng tên Ajahn Brahm không? … (cả Thiền đường cười). Tôi trả lời: Tôi là Ajahn Brahm đây. Thế là Thầy ấy tỏ ra rất hào hứng, tôi cũng hào hứng... Tôi thích Việt Nam. Tôi thích người Việt.
25/11/2018(Xem: 5381)
Tứ Ân hay là Tứ Trọng Ân, bốn ơn nặng mà người Phật tử phải cố gắng đền đáp, cho vuông tròn. Đó là: 1) Ơn Cha Mẹ: Chín tháng cưu mang, sinh thành dưỡng dục. Cha mẹ luôn vì con mà phải mất ăn mất ngủ, suốt đời làm lụng vất vả, chịu đủ thứ lao tâm khổ trí, có thể đến hy sinh tất cả, để nuôi nấng và dạy dỗ con cho nên người. Ơn nầy, thật là như biển rộng trời cao. Nên ca dao ta có câu: "Ơn cha như núi Thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu, mới là đạo con"
03/06/2018(Xem: 21811)
CHÁNH PHÁP Số 79, tháng 06.2018 NỘI DUNG SỐ NÀY:  THƯ TÒA SOẠN, trang 2  TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3  THÁNG SÁU EM VỀ HẠ CHỨA CHAN (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 7  CÚNG DƯỜNG CHÁNH PHÁP (Sa môn Thích Tín Nghĩa), trang 8
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567