Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 11: Trách nhiệm toàn cầu

12/11/201017:48(Xem: 8348)
Chương 11: Trách nhiệm toàn cầu

 

 

Chương11
TRÁCHNHIỆM TOÀN CẦU

 

Tôitin rằng mỗi hành động của chúng ta đều có một chiềuphổ quát toàn cầu. Vì thế, giới luật luân lý, hành vi thiệnlành, và nhận thức thận trọng là các chất liệu thiếtyếu cho một đời sống ý nghĩa, hạnh phúc. Nhưng chúng tathử quán xét về tầm mức tương quan cùng cộng đồng rộnglớn hơn.

Trongquá khứ, gia đình và các cộng đồng nhỏ chỉ hiện hữuđộc lập ít hay nhiều giữa cái này và cái kia. Nếu họđặt vấn đề an sinh của các đồng loại càng nhiều thìcàng tốt. Lại nữa, họ không thể sanh tồn nếu thiếu phốicảnh đó. Trường hợp đó không còn giống như vậy. Hiệnthực ngày nay rất phức tạp, và ít ra trên lãnh vực vậtchất, thế giới nối liền nhau quá rõ rệt đến độ cầnphải có một nhãn quan khác hẳn. Nền kinh tế hiện đạilà một trường hợp cao điểm. Thị trường chứng khoán sụpđổ ở phía bên này của địa cầu có thể tạo ảnh hưởngtrực tiếp đến nền kinh tế của các nước phía bên kia.Tương tự, thành quả kỹ thuật trong các sinh hoạt hiện naylại có một ảnh hưởng tác hại không còn ngờ vực đếnmôi trường thiên nhiên. Và vấn đề dân số cho thấy chúngta không thể bỏ quên ích lợi của người khác nữa. Thậtthế, chúng ta có quá nhiều sự ràng buộc cho thấy khi phụcvụ cho lợi ích của ta cũng tạo lợi ích cho người khác,ngay khi đó không phải là ý định rõ rệt của ta. Thí dụ,khi hai gia đình chia cùng một nguồn nước, phải bảo đảmcho sự không ô nhiễm sẽ làm lợi cho cả đôi bên.

Trênnhãn quan đó, tôi tin điều cốt yếu là chúng ta phải vunbồi một cảm thức mà tôi gọi là trách nhiệm toàn cầu(hay phổ quát). Dùng chữ này không hoàn toàn chính xác nhưtừ ngữ Tây tạng mà tôi có trong đầu, "chi sem", có nghĩatừng chữ là, tâm thức (chi) toàn cầu (sem). Mặc dù kháiniệm về trách nhiệm được ngụ ý nhiều hơn là nói rõrệt trong tiếng Tây tạng, nhưng nó hàm chứa sâu xa trong đó.Khi tôi nói đặt căn bản trên sự quan tâm đến an sinh thanhân hầu có thể phát triển một cảm thức trách nhiệm toàncầu, tôi không ngụ ý đề xướng mỗi cá nhân phải chịutrách nhiệm trực tiếp đến, chẳng hạn như, chiến tranhhay nạn đói kém ở nhiều nơi trên thế giới. Nhưng trongthật hành Phật giáo, chúng tôi thường tự nhắc nhở mìnhvề bổn phận phải phục vụ cho toàn thể chúng sanh trongvũ trụ. Tương tự, các người hữu thần tin là phụng vụcho Thượng đế sẽ kéo theo phụng vụ cho an sinh của tấtcả con cái Ngài. Nhưng có vài điều hiển nhiên, như là sựnghèo đói của một làng nhỏ cách xa vạn dặm, xem như hoàntoàn vượt phạm vi của một cá nhân. Tuy nhiên, vấn đềở đây không phải là nhìn nhận lỗi lầm, mà một lần nữa,là một sự tái định hướng tâm và trí vượt khỏi cáingã đến hướng đến tha nhân. Phát triển được một cảmthức trách nhiệm toàn cầu — của tầm kích toàn cầu trongmỗi hành động của ta và của quyền bình đẳng giữa mọingười trong hạnh phúc và tránh đau khổ — là phát triểnmột thái độ của tâm, sao cho mỗi khi nhìn thấy bất cứcơ hội nào lợi lạc cho tha nhân, ta sẽ nắm lấy, thay vìchỉ chú trọng hạn hẹp vào lợi ích bản thân. Nhưng, dĩnhiên, vì chúng ta còn phải quan tâm đến cả những gì ngoàiphạm vi của mình, do đó, cần chấp nhận nó như là thànhphần của thiên nhiên, và quan tâm đến việc làm nào lợilạc nhất có thể được.

Mộtích lợi quan trọng trong sự phát triển cảm thức về tráchnhiệm toàn cầu chính là giúp chúng ta trở nên nhạy cảmđối với tất cả — không phải chỉ riêng với những ngườithân cận. Chúng ta sẽ thấy nhu cầu phải chăm sóc đặc biệtcho những thành phần của gia đình nhân loại chịu nhiềuđau khổ nhất. Chúng ta nhận ra nhu cầu phải tránh gây chiarẽ giữa đồng loại. Và chúng ta ý thức được tầm quantrọng vượt bực của sự hài lòng do tri túc.

Khibỏ quên an sinh tha nhân và không biết đến tầm kích toàncầu trong hành động của mình, điều khó tránh là chúng tasẽ thấy các lợi ích của mình dường như cách biệt cùngcủa họ. Chúng ta sẽ đánh mất sự hợp nhất nền tảngtrong gia đình nhân loại. Dĩ nhiên, rất dễ nêu ra vô sốyếu tố đi ngược lại khái niệm hợp nhất này. Trong đókể cả sự khác biệt tín ngưỡng, ngôn ngữ, phong tục, vănhóa, vân vân. Nhưng khi nhấn mạnh quá nhiều đến các khácbiệt giả tạo đó, ngay cho dù các sự phân biệt nhỏ nhặt,cứng nhắc, chúng ta cũng không tránh khỏi mang thêm đau khổđến cho chính mình và người khác. Điều đó thật vô nghĩa.Loài người chúng ta đã chịu quá nhiều khó khăn. Chúng taphải đối diện cùng cái chết, tuổi già, và bệnh hoạn— không kể việc gặp phải bất mãn. Đó là các thứ chúngta không sao tránh khỏi. Bấy nhiêu đó chưa đủ sao? Tại saocòn phải tạo nhiều thứ vấn đề không cần thiết chỉđặt căn bản trên các khác biệt tư tưởng hoặc màu da?

Khithẩm định các hiện trạng đó, chúng ta thấy cả hai, luânlý lẫn nhu cầu, đều cần một thứ giải pháp. Nhằm vượtqua khuynh hướng bỏ quên yêu cầu và ích lợi của ngườikhác, chúng ta phải thường xuyên tự nhắc nhở mình về mộtđiều rất hiển nhiên: đó là trên bản chất, chúng ta đềunhư nhau. Tôi đến từ Tây tạng; đa số độc giả quyểnsách này không phải là người Tây tạng. Nếu tôi đượcgặp riêng từng độc giả và nhìn kỹ họ, tôi chắc hẳnsẽ thấy phần đông quả có các đặc điểm khác tôi ởngoài mặt. Nếu tôi tập trung vào các điểm khác biệt đó,sẽ làm chúng trở thành điều gì quan trọng. Nhưng kết quảsẽ làm cho chúng ta xa nhau hơn là gần nhau.

Nếu,mặt khác, tôi lại nhìn mỗi người như cùng một giống vớitôi — giống người với một cái mũi hai con mắt vân vân,bỏ qua sự khác biệt của hình tướng và màu sắc — thìtự động sẽ thấy cảm thức cách biệt đó phai nhạt đi.Tôi sẽ thấy rằng tất cả chúng ta đều có cùng thứ thịtda của con người, và hơn nữa, người khác cũng như tôi,đều muốn hạnh phúc và tránh đau khổ. Trên căn bản củanhận thức đó, tôi cảm thấy xu hướng tự nhiên về họ.Và mối quan tâm đến sự an sinh của họ cũng tự động khơidậy trong tôi.

Tuythế, dù rằng hầu hết mọi người đều muốn chấp nhậnnhu cầu hợp nhất trong nhóm riêng của họ, và trong đó, sựcần thiết quan tâm đến an sinh cho người khác, họ vẫn cókhuynh hướng lãng quên phần còn lại của nhân loại. Làmnhư vậy, chúng ta bỏ quên không phải chỉ có bản chất tùythuộc của thực tại, mà còn cả hiện thực của trườnghợp riêng. Nếu một nhóm người, một chủng tộc, hoặc mộtdân tộc, có thể đạt hoàn toàn sự thỏa mãn và trọn vẹnhoàn toàn tự lập và không tùy thuộc chỉ trong hạn địnhcủa xã hội mình, thì có thể lý luận rằng, sự phân biệtcùng các người bên ngoài có thể đúng. Nhưng đây lại khôngphải thế. Thật vậy, thế giới tân tiến ngày nay đượcthiết lập trên phương thức các ích lợi của một cộngđồng riêng biệt nào đó không thể còn có thể nằm tronggiới hạn của các biên giới cõi bờ.

Vunbồi sự hài lòng như thế chính là điều thiết yếu hầubảo tồn việc chung sống hòa bình. Sự không hài lòng nảysanh ra việc muốn chiếm hữu, vốn chẳng bao giờ được thỏamãn. Nếu điều con người tìm vốn có bản chất vô hạnđịnh, như phẩm chất về lòng khoan dung chẳng hạn, thì vấnđề sự hài lòng không cần đề ra. Khi chúng ta càng gia tăngkhả năng khoan dung, thì chúng ta lại càng khoan dung. Đối vớicác phẩm chất tâm linh, hài lòng không cần thiết mà cũngkhông được mong muốn. Nhưng nếu điều ta tìm có hạn định,thì sẽ có nguy cơ là một khi đạt được nó, ta lại sẽkhông hài lòng.

Trongtrường hợp một người muốn giàu có, ngay dù người đócó thể nắm trọn guồng máy kinh tế cả nước trong tay, cũngcó thể bắt đầu nghĩ đến việc xâm chiếm nền kinh tếcủa nước khác. Tham muốn có hạn định này không bao giờcó thể thỏa mãn. Mặt khác, khi phát huy được sự hài lòng,chúng ta có thể không bao giờ bị mất hy vọng hoặc mấtảo vọng.

Thiếusự hài lòng — sẽ đi dần vào tham lam — là gieo trồng cáchạt giống của đố kỵ và tranh chấp, và đưa đến mộtnền văn hóa vật chất cực đoan. Không khí tiêu cực tạodựng trở thành một khuôn khổ cho mọi thứ bệnh hoạn xãhội sẽ mang đến đau khổ cho mọi người trong cộng đồng.Nếu đây là trường hợp tham lam và đố ky không có phảnứng ngược, thì vấn đề chỉ diễn ra trong cộng đồng này.Nhưng, thường thì không phải như thế. Đặc biệt, thiếusự hài lòng là một nguồn gây tổn hại đến môi trườngthiên nhiên, và do đó, gây thiệt hại đến người khác. Ngườikhác nào? Đặc biệt là kẻ nghèo và kẻ yếu. Trong cộngđồng riêng của họ, người giàu mạnh có thể bỏ đi nơikhác để tránh, nạn ô nhiễm cao độ chẳng hạn, còn ngườinghèo yếu không có sự lựa chọn.

Tươngtự, người dân trong các xứ nghèo, không có nguồn tài nguyênđể sử dụng, còn phải chịu đựng cả sự quá đáng củacác nước giàu và nạn ô nhiễm từ kỹ thuật thô thiểncủa chính mình. Các thế hệ sắp đến cũng phải lãnh chịuđau khổ đó. Và dần dà mọi người chúng ta đều phải đaukhổ. Bằng cách nào? Chúng ta sống trong một thế giới dota góp phần tạo dựng. Nếu ta không chọn sự cải thiệnhành động của mình trong sự tương kính bình quyền hưởnghạnh phúc và tránh đau khổ cho tha nhân, thì chẳng bao lâuta sẽ thấy các hậu quả tiêu cực. Thử tưởng tượng nạnô nhiễm do hơn hai tỷ chiếc xe thêm vào. Nó sẽ ảnh hưởngđến toàn thể chúng ta. Như thế, hài lòng tri túc không phảichỉ là một vấn đề luân lý. Nếu chúng ta không muốn giatăng kinh nghiệm đau khổ của chính mình, thì đây là mộtvấn đề khẩn thiết.

Đólà một trong các lý do khiến tôi tin rằng sự bành trướngkhông giới hạn của nền kinh tế cần phải đặt vấn đề.Theo quan điểm của tôi, nó chỉ tạo thêm nhiều sự bấthòa, kéo theo rất nhiều vấn đề, cả xã hội lẫn môi sinh.Còn có cả sự kiện là trong khi tận hiến trọn vẹn cho sựphát triển vật chất, chúng ta sẽ bỏ quên sự thực thi phổquát lên trọn cộng đồng rộng lớn. Lại nữa, điều nàykhông phải chỉ là vấn đề hố cách biệt giữa Thế giớithứ Nhất và thứ Ba, giữa miền Bắc và miền Nam, giữa xứtiền tiến và chậm tiến, giữa giàu và nghèo, giữa vô đạođức và sai quấy. Đây là vấn đề của cả hai phía. Nhưngý nghĩa nhất chính là sự kiện bất bình đẳng này tự nólà nguồn khởi loạn đối với tất cả mọi người. Trongý nghĩ đó, thử đơn cử một thí dụ, Âu châu là toàn thếgiới, chứ không phải chỉ là nơi cư ngụ của khoảng dướimười phần trăm dân số thế giới, từ cơ sở đó, lý tưởngvượt trội của một sự tiến bộ không ngừng còn có thểbiện luận hữu lý. Tuy nhiên thế giới không phải chỉ cóÂu châu. Hiện trạng là có rất nhiều người đang đói khátở khắp các nơi khác. Và sự bất quân bình sâu xa như thế,một phần do hậu quả tiêu cực của đủ các thứ, cho dùkhông phải là trực tiếp: người giàu có cũng cảm nhậntriệu chứng nghèo thiếu trong đời sống hàng ngày của mình.Thử xét xem, các máy thu hình lén đặt khắp nơi, các hàngrào an toàn trên khung cửa sổ, tất cả cho thấy người giàuthiếu thốn cảm giác an bình và an toàn.

Tráchnhiệm toàn cầu còn đưa chúng ta đến sự bảo toàn nguyêntắc chân thật. Tôi muốn ngụ ý gì? Chúng ta có thể nghĩđến sự chân thật và thiếu chân thật trong khuôn khổ mốitương quan giữa bề ngoài và thực tế. Đôi khi chúng có vẻnhư tương hợp với nhau, nhưng thường thì không. Khi chúngtương hợp, có thể xem là chân thật, theo như tôi hiểu. Nhưthế chúng ta chân thật khi các hành động của ta đúng nhưbề ngoài chúng thể hiện. Khi chúng ta giả dạng như thứnày, nhưng trên thực tế chúng ta lại là thứ khác, ngườikhác sẽ phát khởi nghi ngờ, e sợ. Và e sợ là điều tấtcả mọi người cần tránh. Đảo lại, nếu trong cách xửthế cùng mọi người chung quanh, ta cởi mở và thành thậttrong bất cứ điều gì nói và nghĩ và làm, mọi người khôngcần phải sợ ta. Điều này đúng cho cả cá nhân lẫn cộngđồng. Hơn nữa, khi hiểu được giá trị của sự chân thậttrong mọi thể hiện, chúng ta sẽ nhận ra không có sự khácbiệt tối hậu giữa nhu cầu của cá nhân và nhu cầu củatoàn cộng đồng. Các con số tuy có khác nhau, nhưng sự mongước và quyền không muốn thất vọng của họ đều như nhau.Như thế, khi tận tâm bảo toàn sự chân thật, chúng ta giảmthiểu được mức hiểu lầm, nghi ngờ và sợ hãi của xãhội. Bằng một cách nhỏ nhặt nhưng ý nghĩa, chúng ta tạođiều kiện cho một thế giới hạnh phúc.

Vấnđề công lý liên hệ mật thiết với cả trách nhiệm toàncầu lẫn vấn đề chân thật. Công lý kéo theo sự đòi hỏiphải hành động khi nhận thức được sự bất công. Thậtvậy, thất bại trong hành động đó có thể sai quấy, tuyrằng không sai trong cảm thức là ta xấu từ bản chất. Nhưngnếu ta ngần ngại nói lên sự công bằng, chỉ vì một cảmthức quy ngã nào đó, đó lại là một vấn đề. Nếu phảnứng của ta trước sự bất công là đặt câu hỏi, "Việcgì sẽ xảy đến cho tôi nếu tôi nói lên? Có thể ngườita sẽ không ưa tôi," thì điều đó vốn vô luân, vì chúngta đã bỏ qua sự liên hệ rộng lớn từ sự im lặng củamình. Cũng chẳng thích đáng và ích lợi khi đưa vào khuônkhổ của sự bình quyền của tất cả trước hạnh phúc vàtránh đau khổ.

Điềunày cũng đúng ngay khi, lấy thí dụ, chính quyền hoặc cơchế phán rằng, "Đây là việc của chúng tôi" hoặc "Đâylà việc nội bộ." Không những chúng ta có bổn phận phảinói lên trong các trường hợp như thế, mà quan trọng hơnnữa, đó là một phục vụ cho tha nhân.

Đươngnhiên, có thể phản đối rằng, một sự chân thật như thếkhông phải lúc nào cũng khả thi, và chúng ta cần phải "thựctế." Hoàn cảnh của chúng ta có thể ngăn ngừa hành độngtheo đúng với trách nhiệm. Chẳng hạn như, gia đình riêngcủa ta có thể bị hại, nếu ta nói lên khi chứng kiến cảnhbất công. Nhưng trong khi ta phải đảm đang cùng hiện thựctrong đời sống hàng ngày, điều cốt yếu là phải giữ mộttầm nhìn rộng lớn. Chúng ta phải thẩm định các nhu cầucủa mình theo tương quan cùng với nhu cầu của người khác;và phán đoán về hành động hoặc không hành động của mìnhsẽ ảnh hưởng ra sao cho họ trong dài hạn. Rất khó chỉtrích những người lo lắng cho các người thân của họ. Nhưngđôi khi cần phải chịu hy sinh vì lợi ích của một cộngđồng rộng lớn hơn.

Cảmthức trách nhiệm đối với tất cả mọi người nghĩa là,vừa như các cá nhân và một tập thể các cá nhân, chúngta có bổn phận phải chăm sóc đến mỗi thành phần trongxã hội của mình. Điều đó không quan hệ thật sự đếnkhả năng vật lý hoặc tinh thần của họ. Cũng giống nhưta, những người đó có quyền hạnh phúc và tránh đau khổ.Chúng ta phải tránh, bằng mọi giá, sự thôi thúc bỏ rơicác kẻ quá phiền não, xem họ như gánh nặng. Các ngườibệnh hoạn hay bên ngoài lề cũng cần được đối xử nhưvậy. Đẩy họ ra ngoài tức là tạo đau khổ chồng chấtthêm. Nếu chúng ta ở trong các điều kiện đó, cũng chỉmong được người khác giúp đỡ. Do đó, chúng ta cần phảiđảm bảo người bệnh hoạn và phiền não không bao giờ cảmthấy bị bỏ quên, không được giúp đỡ hoặc bảo vệ.Thật vậy, lòng ưu ái dành cho các người đó, theo ý tôi,là thước đo sức khỏe tâm linh của ta, cả ở mức độcá nhân lẫn xã hội.

Tôicó vẻ như quá sức lý tưởng trong bài nói chuyện về tráchnhiệm toàn cầu này. Tuy nhiên, đó là một ý tưởng tôi từngtrình bày trước công luận từ chuyến thăm viếng Tây phươnglần đầu tiên của tôi, vào năm 1973. Vào những ngày đó,nhiều người còn nghi ngờ về các khái niệm này. Tương tự,đến nay cũng không phải dễ khiến mọi người thích thúvề khái niệm hòa bình thế giới. Tuy nhiên, tôi rất đượckhích lệ khi ghi nhận rằng ngày hôm nay, một con số gia tăngđang bắt đầu phản ứng rất thuận lợi cho các ý tưởngđó.

Nhưkết quả từ rất nhiều sự kiện phi thường mà nhân loạikinh nghiệm trong thế kỷ hai mươi, chúng ta đã trở nên chínchắn hơn. Vào thập niên năm mươi và sáu mươi, và ngay cảở vài nơi gần đây, nhiều người cảm thấy các xung độtcuối cùng chỉ có thể giải quyết qua chiến tranh. Ngày nay,sự suy tưởng đó chỉ còn dấy động trong lòng một thiểusố. Và cho dù trong tiền bán thế kỷ này, nhiều người còntin tưởng rằng tiến bộ và phát triển trong xã hội phảiđược theo đuổi qua các chế độ cứng rắn, sự sụp đổcủa phát xít, tiếp theo là sự tan biến của cái gọi làBức Màn Sắt, đã cho thấy đó là một thứ nghiệp vụ vôvọng. Tưởng cần ghi nhận rằng, bài học từ lịch sử chothấy, dùng bạo lực áp chế trật tự chỉ có thể tồn tạitrong đoản kỳ. Hơn nữa, sự thỏa hiệp (ngay cả trong sốcác Phật tử) rằng khoa học và tâm linh không thể hòa hợp,đã trở thành một điều không còn đứng vững. Ngày nay,khi kiến thức khoa học về bản chất của thực tại càngsâu xa hơn, thì nhận thức đó đã thay đổi. Vì vậy, ngườita bắt đầu biểu lộ nhiều thích thú về thứ mà tôi đãgọi là thế giới nội tại. Tôi muốn nói đến các độnglực và tác năng của tâm thức, hoặc tinh thần: tâm và trícủa chúng ta. Lại có một sự gia tăng trên toàn cầu củaý thức về môi sinh, và sự nhận biết rằng không phải chỉcó các cá nhân hoặc ngay cả trọn một quốc gia là có thểtự giải quyết lấy các vấn đề của chính mình, mà chúngta ai ai cũng cần đến nhau. Đối với tôi, tất cả điềuđó là những tiến triển đầy khích lệ, chắc chắn sẽđưa đến các kết quả trường kỳ. Tôi cũng được khíchlệ bởi sự kiện của nhu cầu tìm các giải pháp bất bạođộng cho các xung đột, nhằm đưa ra tinh thần hòa giải mới.Còn một điều, như chúng ta đã từng ghi nhận, là sự chấpnhận gia tăng về tánh cách toàn cầu của nhân quyền, vànhu cầu nhìn nhận sự đa dạng trong các lãnh vực quan trọngchung, như là các vấn đề tôn giáo. Điều này tôi tin đãphản ánh được sự nhìn nhận nhu cầu về một phối cảnhrộng lớn hơn, hầu đáp ứng sự đa dạng của chính gia đìnhnhân loại. Như một kết quả, mặc dù quá nhiều đau khổvẫn tiếp tục nhiễu hại các cá nhân và các dân tộc trênthế giới dưới các danh xưng là lý tưởng, hoặc tôn giáo,hoặc tiến bộ, hoặc kinh tế, nhưng một cảm thức hy vọngmới đã vươn lên cho những người bị áp bức chà đạp.Mặc dù chắc chắn rất khó mang lại hòa bình và hòa hợpthật sự, nhưng rõ rệt là sẽ đi đến. Tiềm năng đã hiểnlộ. Và nền tảng là cảm thức trách nhiệm của từng mỗicá nhân đối với tất cả người khác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/11/2021(Xem: 11772)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12232)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 15117)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 11981)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16826)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12638)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7874)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 20267)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11725)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9188)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567