Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 9: Luận lý về đau khổ

12/11/201017:45(Xem: 8640)
Chương 9: Luận lý về đau khổ


Chương9

LUÂNLÝ VỀ ĐAU KHỔ

Tôitừng đề nghị rằng, tất cả chúng ta đều muốn hạnh phúc,hạnh phúc chân thật có đặc tánh là an bình, và an bình chắcchắc chỉ đạt được khi hành động của ta có động cơlà sự quan tâm đến tha nhân; và điều đó sẽ nối tiếpbằng giới luật luân lý và giải pháp trực tiếp cho cảmxúc phiền nhiễu. Tôi cũng đề nghị rằng, trong khát vọnghạnh phúc, chúng ta tìm sự xa lánh đau khổ một cách tựnhiên và thích đáng. Giờ ta thử quán xét phẩm chất, hoặctrạng thái, khi ta ước vọng mạnh mẽ được giải thoátkhỏi đau khổ đang nằm ngay trong đời sống của ta.

Đaukhổ và đau đớn là các sự thật không thể tránh khỏi củacuộc đời. Một chúng sanh, theo định nghĩa thông thườngcủa tôi, là một kẻ có khả năng kinh nghiệm đau đớn vàđau khổ. Cũng có thể nói, kinh nghiệm về đau khổ nối liềnta cùng người khác. Nhưng vượt trên điều đó, ta có thểquán xét rằng, đau khổ chia ra làm hai loại (liên hệ nhau).Có những hình thái có thể tránh, khởi dậy từ các hiệntượng như chiến tranh, nghèo đói, bạo lực, tội ác — ngaycả các thứ như dốt nát và một số bệnh hoạn. Nhưng cónhững hình thái không thể nào tránh được, bao gồm các hiệntượng như bệnh, lão, và tử. Cho đến giờ, chúng ta chỉbàn đến việc giải quyết các loại đau khổ có thể tránh,do loài người tạo ra. Giờ tôi xin quán xét rõ ràng hơn đếncác loại không thể tránh.

Vấnđề và khó khăn ta đối diện trong cuộc đời không phảiluôn luôn như là thiên tai. Ta không thể tự bảo vệ tránhchúng chỉ bằng cách phòng ngừa thận trọng, như là đểdành thức ăn. Trong trường hợp bệnh hoạn, chẳng hạn, chodù cố gắng giữ sức khỏe đến đâu bằng thể thao và ănkiêng, dần dà thân thể ta cũng đi đến các vấn đề vậtlý. Và khi chúng đến, ảnh hưởng trên đời sống có thểhệ trọng: chúng ngăn ta không làm được các điều muốnlàm, đi đến các nơi muốn đến. Thường thì ta bị ngănkhông được ăn các thức ta thích, thay vào đó phải uốngcác loại thuốc mùi vị đáng khiếp. Khi sự việc trở thànhtệ hại, chúng ta có thể đau nhức ngày đêm — đến độchỉ còn cầu mong chết.

Vềsự già lão, từ ngày chúng ta mới chào đời, đã phải đốidiện cùng viễn ảnh lão hóa và mất đi sự dẻo dai củatuổi trẻ. Đến lúc đó, tóc sẽ rụng, răng sẽ rụng, mắtmờ và tai điếc. Chúng ta không thể tiêu hóa các thức ăntừng ưa thích nữa. Dần dà, chúng ta lại quên đi mất nhiềuviệc lúc trước thật rõ ràng, và có khi còn quên cả têncác người thân thuộc của mình. Nếu sống thật lâu, chúngta lại phải rơi vào trạng thái lọm khọm mà nhiều ngườichỉ cần nhìn thấy cũng đủ chán chê, mặc dù đấy mớiđúng vào quãng thời gian mà ta cần đến họ nhất.

Rồicái chết đến — hầu như là một đề tài cấm kỵ trongcác xã hội văn minh. Mặc dù có khi chúng ta nhìn nó như mộtsự nhẹ nhõm và bất kể chuyện gì đến sau khi chết đi,cái chết có nghĩa là ta sẽ xa lìa các người thân thương,các sở hữu quý giá, thật vậy, tất cả những gì mà tayêu chuộng.

Trongsự mô tả ngắn gọn về các đau khổ không thể tránh này,chúng ta phải thêm một loại khác. Đó là đau khổ khi gặpgỡ kẻ không muốn gặp — hoặc rủi ro hay tai nạn. Đó làđau khổ khi thứ ta muốn bị lấy mất đi — như các ngườitỵ nạn chúng tôi khi mất quê hương, nhiều người mất cảcác người thân. Đó là đau khổ vì không đạt được điềumong muốn, dù đã bỏ thật nhiều công sức để làm. Mặcdù ta gẫy cả lưng khi làm việc trên cánh đồng, nhưng lạibị thất mùa; mặc dù làm việc ngày đêm cho một doanh nghiệp,lại chẳng thành công do lỗi ta hay lỗi người khác. Rồilại còn đau khổ vì không biết chắc, vì không thể biếtkhi nào và ở đâu ta lại gặp nghịch cảnh. Từ kinh nghiệmcủa bản thân, tất cả chúng ta đều biết điều đó dẫnđến cảm giác bất an và lo lắng. Và làm tiêu hao hết tấtcả việc ta làm, là thứ đau khổ của sự bất mãn, khởilên cho dù khi ta đã đạt được điều mong muốn. Những sựkiện trên là thành phần của kinh nghiệm hàng ngày của mọingười vốn dĩ mong hạnh phúc và tránh đau khổ.

Nếuđiều trên chưa đủ, còn có thêm sự kiện là các kinh nghiệmta thường nghĩ là thích thú lại biến thành nguồn đau khổcho mình. Chúng có vẻ như cung ứng sự thỏa mãn, nhưng lạikhông thật sự tạo được; đó là thứ hiện tượng ta từngnói đến trước đây. Thật thế, nếu nghĩ tận tường, tasẽ thấy việc nhận thức các kinh nghiệm như là thích thú,cho đến cùng, chỉ được đền bù bằng một đau khổ rõrệt hơn. Thí dụ như, ta ăn để trấn áp cơn đói. Ta ănmột miếng lớn, rồi hai, ba, bốn, năm và tận hưởng kinhnghiệm đó — nhưng chẳng bao lâu, cùng một người và cùngthức ăn đó, ta bắt đầu cảm thấy hết muốn ăn. Nếu khôngngưng lại, việc đó sẽ hại ta — cũng như thực tế củahầu hết mọi thứ lạc thú trần gian đều tác hại cho tanếu đi đến thái quá. Đó là tại sao hài lòng là điềucần thiết nếu ta muốn hạnh phúc thật sự.

Tấtcả các biểu hiện đau khổ nói trên có căn bản không thểtránh, và đích thật là các sự kiện tự nhiên của đờisống. Điều đó không có nghĩa là, cuối cùng, chúng ta khônglàm gì được trước chúng. Cũng không có nghĩa là nó khôngliên hệ đến vấn đề giới luật luân lý. Quả thật, theoPhật giáo và các triết lý tôn giáo Ấn độ khác, đau khổlà kết quả của nghiệp quả "karma". Nhiều người, Đôngphương cũng như Tây phương, giả định rằng "karma" mang ýnghĩa, bất cứ điều gì ta kinh nghiệm đều đã được tiềnđịnh; tuy nhiên nghĩ vậy là hoàn toàn sai lầm. Đó lại càngkhông phải một cái cớ để khỏi chịu trách nhiệm trongbất cứ mọi hoàn cảnh nào.

Bởivì từ "karma" đã đi vào ngữ vựng phổ thông, cho nên cầnthiết phải làm sáng tỏ khái niệm này hơn. "Karma "trong tiếngSanskrit có nghĩa là "hành động." Nó ghi nhận một sức mạnhtích cực, việc làm ra như kết quả của các sự kiện tươnglai có thể bị ảnh hưởng bởi các hành của ta. Giả thiết"karma" là một thứ năng lực độc lập nào đó ấn địnhtrước trọn dòng đời của ta vốn hoàn toàn sai lầm. Ai đãtạo ra "karma"? Chính chúng ta. Điều ta nghĩ, nói, làm, muốn,và thiếu tạo thành "karma". Như tôi đã viết, lấy thí dụ,hành động tạo thành một trường hợp mới và hậu quảmới của một sự kiện nào đó. Lời của tôi tạo nên mộtphản ứng trong trí độc giả. Trong mỗi việc ta làm, luônluôn có nhân và quả, nhân và quả. Trong đời sống hàng ngày,thực phẩm ta ăn, công việc ta làm, và sự nghỉ ngơi củata đều là tác dụng của hành động: hành động của chúngta. Đó chính là "karma". Do đó, chúng ta không thể dấu tayđi khi nào thấy mình đối đầu cùng các đau khổ khó tránh.Nếu cho mỗi sự không may chỉ đều do kết quả của "karma"là tương đương với việc bảo rằng chúng ta hoàn toàn bấtlực trong cuộc đời. Nếu điều đó đúng, sẽ không cònlý do gì mà hy vọng. Chúng ta tốt nhất nên cầu nguyện chongày tận thế.

Mộtsự thẩm định đúng hơn về nhân quả đề khởi rằng, khácxa với sự bất lực, có rất nhiều điều chúng ta có thểlàm hầu tạo ảnh hưởng trên kinh nghiệm đau khổ của mình.Lão, bệnh, và tử không thể tránh. Nhưng, đối với các sựdày vò của các ý niệm và cảm xúc tiêu cực, chúng ta chắcchắn có sự chọn lựa một cách phản ứng đối với cácsự việc của đau khổ xảy ra. Nếu muốn, ta có thể chọnmột khuynh hướng ít đam mê và duy lý hơn, và trên nền tảngcó thể giới chế các phản ứng của mình. Mặt khác, ta cóthể chỉ cần tránh các sự không may đó. Nhưng khi làm thế,chúng ta có thể trở nên bị dồn nén. Kết quả là, cảmxúc phiền nhiễu trổi dậy và an bình nội tâm của chúngta bị phá hủy. Khi ta không giới hạn các xu hướng phảnứng tiêu cực trước đau khổ, nó sẽ trở nên một nguồný niệm và cảm xúc tiêu cực. Như thế có một liên hệ rõrệt giữa ảnh hưởng nỗi khổ trong tâm trí ta và sự thậthành giới luật nội tại.

Tháiđộ căn bản của ta đối với đau khổ rất khác biệt vớicách ta kinh nghiệm nó. Thí dụ như, có hai người đau khổtrước một hình thức tương tự của bệnh ung thư. Điểmkhác biệt duy nhất giữa hai bệnh nhân đó là cái nhìn củahọ về bệnh trạng. Một người nhìn nó như điều gì phảichấp nhận, và nếu có thể, chuyển thành cơ hội để pháthuy một sức mạnh nội tại. Một người lại phản ứng trướctrường hợp của mình bằng sự sợ hãi, cay đắng, và lolắng cho tương lai. Mặc dù trên các triệu chứng thuần vậtlý, có thể không có khác biệt giữa hai người trong nhữnggì họ đang đau khổ; nhưng lại có một khác biệt sâu xatrong kinh nghiệm của họ về cơn bệnh của mình. Trong trườnghợp sau, thêm vào với sự đau đớn vật lý, là một sựđau khổ tinh thần sâu đậm.

Điềunày đề khởi rằng, mức độ của đau khổ ảnh hưởng đếnchúng ta tùy thuộc nhiều vào chính mình. Do vậy, điều thiếtyếu là giữ một phối cảnh thích đáng trên kinh nghiệm vềđau khổ. Khi nhìn thật gần vào một vấn đề đặc biệtnào đó, ta thấy như nó lớn lao quá và lấp trọn cả nhãnquan. Tuy nhiên, nếu nhìn cùng vấn đề đó ở từ xa, tựđộng ta sẽ thấy được sự liên hệ của nó cùng các vậtkhác. Hành động đơn giản đó tạo ra một sự khác biệtto tát. Nó cho phép ta nhận ra rằng mặc dù hoàn cảnh đưađến quả thật bi thảm, nhưng ngay cả sự kiện bất hạnhnhất cũng có nhiều diện dị biệt và có thể đến gầnbằng nhiều góc cạnh khác nhau. Thật thế, rất hiếm khi,nếu chẳng phải là không bao giờ, có thể tìm thấy mộttrường hợp hoàn toàn tiêu cực cho dù ta nhìn nó bất cứcách nào.

Khithảm kịch hoặc bất hạnh đến với ta — chắc chắn chúngphải đến — điều cần ích là phải so sánh với một sựkiện khác, hoặc nhớ lại một trường hợp tương tự haytệ hơn đã từng xảy ra, nếu không phải của ta, thì củangười khác ta từng gặp. Khi đã chuyển được tầm nhìnra khỏi cái ngã và hướng về người khác, ta sẽ kinh nghiệmđược một hiệu quả giải thoát. Có một điều về tánhnăng động của sự tự kỷ tư duy, hoặc bận tâm về chínhta nhiều quá, sẽ tạo khuynh hướng phóng đại nỗi khổ củamình. Đảo lại, khi nhìn nó trong liên hệ cùng nỗi khổ củangười khác, ta bắt đầu nhận ra, trên diện tương đối,nó chẳng phải là không thể chịu đựng được.

Điềunày cho phép ta bảo tồn được an bình nội tâm dễ dàng hơnkhi ta chỉ tập trung vào vấn đề của mình mà bỏ quên hếttất cả điều khác.

Theokinh nghiệm của chính cá nhân tôi, chẳng hạn như, khi tôinghe tin xấu về Tây tạng — đáng buồn là quá thường xuyên— tự nhiên phản ứng tức khắc của tôi là nỗi buồn.Nhưng, khi đưa vào khuôn khổ và tự nhắc nhở về khuynh hướngcăn bản của con người cần tình thương, tự do, sự thậtvà công lý phải luôn luôn được đề cao, tôi thấy mìnhcó thể đối phó một cách khá tốt. Các cảm xúc giận dữkhông kềm hãm nổi — vốn không làm gì hơn ngoài việc đầuđộc trí óc, cay đắng con tim, và bạc nhược ý chí — thườngít khi trổi dậy, cho dù trước các tin tệ hại nhất.

Cũngcần nhớ rằng, thời điểm của sự đạt đến trí tuệvà nội lực cao nhất thường cũng là lúc khó khăn nhất.Với khuynh hướng đúng — ở đây ta lại thấy tầm quan trọngtối thượng của việc phát triển một thái độ tích cực— kinh nghiệm đau khổ có thể mở mắt ta trước thực tế.Thí dụ như, kinh nghiệm bản thân tôi về cuộc đời nhưlà một người tỵ nạn giúp tôi ý thức được rằng nhữngnghi thức bất tận, như là một phần quan trọng trong đờitôi ở Tây tạng, quả thật chẳng cần thiết. Chúng ta cònthấy rằng lòng tự tin và tự trọng có thể phát huy hơn,và sự can đảm được tăng cường hơn như kết quả từnỗi khổ. Điều này có thể thấy trong thế giới quanh ta.Ở cộng đồng tỵ nạn, chẳng hạn, trong số những ngườicòn sống sót của các năm lưu vong đầu tiên, tôi đượcbiết một số người, dù đau khổ khủng khiếp, nhưng lạilà các cá nhân có tinh thần mạnh mẽ nhất và niềm vui vôái ngại. Ngược lại, chúng ta lại thấy, có một số ngườiđối diện cùng các nghịch cảnh nhỏ nhặt, dù họ có đủthứ, nhưng lại nghiêng về sự mất hy vọng và đi vào tuyệtvọng. Xu hướng tự nhiên muốn giàu có thường làm hỏngta. Kết quả thông thường là nó dần dà khiến ta cảm thấykhó chịu đựng được các vấn đề mà bất cứ người nàothỉnh thoảng cũng phải đối phó.

Thửxét đến các sự chọn lựa khả hữu khi ta phải đối diệncùng vấn đề đặc biệt. Ở một cực, ta có thể để chomình bị đắm chìm trong đó. Ở cực kia, ta chỉ cần đi ănngoài trời hay giải trí và quên nó đi. Khả năng thứ ba làtrực tiếp đối diện cùng trường hợp. Điều này bao gồmviệc quán xét, phân tích, thẩm định nhân quả, và tìm giảipháp cho nó.

Mặcdù cách thứ ba đôi khi khiến chúng ta phải đau thêm trongmột thời gian ngắn, nhưng rõ ràng nó đáng chọn hơn hai cáchkia. Nếu ta cố tránh hoặc chối một vấn đề chỉ bằngcách quên bỏ nó hoặc uống rượu hay hút thuốc, hoặc ngaycả dùng vài hình thức hành thiền hay cầu nguyện nào đónhư phương tiện để trốn thoát, trong khi còn có một cơhội giải thoát ngắn hạn, như thế vấn đề vẫn còn đó.Khuynh hướng như trên chỉ tránh né chứ không giải quyếtđược vấn đề. Một lần nữa, nguy cơ sẽ được thêm vàotrên vấn đề đầu tiên, và tiếp theo đó là sự bất ổntinh thần và cảm xúc. Các sự phiền nhiễu của lo lắng,sợ hãi và nghi ngờ cứ chồng chất lên. Dần dà, có thểđưa đến sự giận dữ và tuyệt vọng, kéo theo đủ thứđau khổ xa hơn (cho chính ta và người).

Thửhình dung một tai nạn như bị bắn vào bụng. Cơn đau rấtdữ dội. Chúng ta phải làm gì? Dĩ nhiên, ta cần phải lấyviên đạn ra và chịu đựng việc giải phẫu. Điều này cànglàm đau đớn hơn. Tuy nhiên ta phải chấp nhận điều đóhầu vượt qua được vấn đề tiên khởi. Tương tự, do sựnhiễm độc, hoặc một tổn hại kinh khủng nào đó, có thểta phải mất tay hoặc chân hầu giữ tánh mạng. Dĩ nhiên,ta phải chuẩn bị tinh thần chấp nhận hình thức đau khổđó, hầu tránh khỏi sự đau khổ lớn hơn của cái chết.Chỉ là lẽ thường khi phải chịu đựng khổ sở trong việclàm nào đó hầu tránh một sự tệ hại hơn. Tôi nhìn nhậnkhông phải luôn luôn dễ dàng quyết định. Khi lên sáu bảytuổi, tôi bị chủng ngừa bệnh đậu. Nó quả thật là đau,khiến tôi phải phát ngờ, dù được cho biết cơn đau đókhông nhằm nhò gì so với bệnh chứng. Cơn đau kéo dài mấtmười ngày, và kết quả hiện tôi vẫn còn bốn cái sẹolớn!

Nếuviễn cảnh đương đầu cùng nỗi khổ đến trước mặt đôikhi có vẻ hơi dọa nạt, nhưng cần nên nhớ thật ra khôngcó gì trong các kinh nghiệm thông thường của ta là thườngtrực. Tất cả hiện tượng đều có tánh biến hóa và hoạidiệt. Cũng thế, như trong một mô tả về hiện thực mà tôitừng đề ra, chúng ta sai lầm nếu giả thiết rằng kinh nghiệmđau khổ — hay hạnh phúc — có thể đến chỉ từ một nguồnduy nhất. Theo lý thuyết về căn nguyên tùy thuộc, mọi thứđều khởi dậy trong khuôn khổ của vô số nguyên nhân vàđiều kiện. Nếu không phải thế, một khi tiếp xúc cùngthứ gì xem như tốt, ta sẽ tự động vui; và khi tiếp xúccùng thứ gì xem như xấu, ta sẽ tự động buồn. Nguyên nhâncủa niềm vui và nỗi buồn như thế quá dễ nhận, và cuộcđời quá đỗi giản dị. Chúng ta sẽ có các lý do tốt đểràng buộc cùng một hạng người hay sự vật hay sự kiệnnào đó, và giận ghét hay tránh né các thứ khác. Nhưng đólại không phải là hiện thực.

Cánhân tôi nhận thấy các lời khuyên về nỗi khổ của vịthánh hiền Ấn độ Shantideva rất hữu ích. Điều cốt yếu,theo ông, là khi chúng ta đối diện cùng bất cứ khó khănnào, đừng để chúng làm ta tê liệt. Nếu bị như thế, tađã sa vào nguy cơ bị chúng phủ ngập.

Thayvì vậy, hãy sử dùng các cơ năng quan yếu, quán xét bảnchất của chính vấn đề. Và khi ta thấy rằng có các khảnăng giải quyết nó cách này hay cách khác, không cần phảilo lắng nữa. Điều hữu lý là nên đặt toàn năng lực trêncác phương tiện đó mà hành động.

Nếu,mặt khác, ta thấy bản chất của vấn đề không thể cógiải pháp, thì không có điểm gì để lo buồn nữa. Nếukhông có gì thay đổi được tình trạng, lo buồn càng chỉlàm tệ hại thêm lên. Đặt bên ngoài khuôn khổ của thứtriết lý về cực điểm của một loạt tư duy phức tạp,khuynh hướng của Shantideva nghe như là giản dị hóa. Nhưngvẻ đẹp của nó nằm chính ở phẩm chất giản dị đó.Và không ai có thể lý luận gì thêm trước lẽ thật trongsuốt của nó.

Ởđây chúng ta không đi sâu vào vấn đề đau khổ có mục tiêuthực tế nào đó. Nhưng nếu kinh nghiệm về đau khổ nhắcnhở ta đến điều người khác phải chịu đựng, nó là mộtphối hợp mạnh mẽ cùng việc thật hành từ bi và giới chếcác nhân duyên đau khổ. Và trong khuôn thức khơi dậy đượcthiện cảm và giúp ta cảm thông tha nhân, đau khổ có thểđóng góp như một nền tảng của từ bi và tình thương. Tôixin nhắc lại thí dụ về vị hành giả Tây tạng đã ngồitù hơn hai mươi năm và chịu đựng sự đối xử hà khắcnhất kể cả tra tấn, sau khi đất nước chúng tôi bị xâmchiếm. Trong thời gian đó, các đệ tử của ông đào vongđược thường cho tôi biết rằng, các lá thư ông viết vàlén gởi khỏi trại giam đều chứa đựng các lời giảngdạy về tình thương và từ bi sâu xa nhất mà họ chưa từnggặp. Các nghịch cảnh, dù có khả năng biến thành nguồnhận thù và tuyệt vọng, đồng thời cũng có khả năng biếnthành nguồn phát triển tâm linh. Kết quả cách này hay cáchkhác chỉ tùy thuộc vào phản ứng của chúng ta.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/11/2021(Xem: 11868)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12357)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 15246)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 12067)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16979)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12741)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7935)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 20410)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11802)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9247)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567