Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhà Thần Học Kitô Giáo Nói Về Đạo Phật

28/02/201310:49(Xem: 5127)
Nhà Thần Học Kitô Giáo Nói Về Đạo Phật

Nhà Thần Học Kitô Giáo Nói Về Đạo Phật


hoa_sen (11)Chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc bài trả lời phỏng vấn của Paul F. Knitter, Giáo sư thần học về các Tôn giáo Thế giới và Văn hóa tại Chủng viện Union ở Hoa Kỳ và là tác giả cuốn sách “Không Học Phật, Tôi Đã Không Thể Là Một Con Chiên- Without Buddha I Could Not Be A Christian”.

Trong bài trả lời phỏng vấn đó, nhà thần học Kitô giáo đã đề cập đến đạo Phật, triết lý và những phương pháp tu tập của đạo Phật. Chúng tôi mong rằng các bạn sẽ đọc kỹ để càng thấu rõ hơn tính chất vi diệu của Giáo Pháp đức Phật mà củng cố thêm niềm tin và lòng tinh tấn tu tập. Bài này do Pháp Niệm chuyển ngữ, chúng tôi xin phép được đăng lại.

Nhóm Biên tập Trang Nhà

Paul F. Knitter,tác giả cuốn sách “Không Học Phật, Tôi Đã Không Thể Là Một Con Chiên - Without Buddha I Could Not Be A Christian”, là Giáo sư Thần học về các Tôn giáo Thế giới và Văn hóa tại Chủng viện Union ở thành phố Nữu Ước chuyên dạy về Paul Tillich. Ông là người chủ đạo khởi xướng về sự đối thoại giữa các tôn giáo có trách nhiệm tổng thể và là tác giả của trên 10 cuốn sách chung quanh chủ đề này. Trong cuốn sách mới nhất này, bằng tính cách cá nhân, ông chia sẻ những nỗ lực, phấn đấu, khó khăn trong tự thân đối với đức tin Kitô, đồng thời thuật lại những nghiên cứu học hỏi về đạo Phật và thiền tập đã giúp ông vượt qua những khó khăn, chật vật đó như thế nào.

Độc giả của National Catholic Reporter đã quen với đạo Phật hoặc thực tập theo những tôn giáo và các truyền thống Đông phương khác sẽ nhận thấy cuốn sách này rất dễ chịu, thích thú và bổ ích. Thật là một điều khác thường đối với một nhà Thần học Cơ Đốc viết về kinh nghiệm tu học riêng tư của mình như Knitter đã làm trong cuốn sách này. Vừa qua tôi đã trò chuyện với ông về đức tin Kitô của ông và về triết lý đạo Phật cũng như sự thực tập đã thấm vào lối suy tư và đời sống của ông như ông đã làm việc trong lãnh vực đối thoại giữa các liên hiệp tôn giáo, tín ngưỡng.

Fox:Ông có nghĩ rằng chính ông là một tín đồ Kitô giáo không?

Paul F. Knitter:Oh, hẳn nhiên. Tôi đã sinh ra trong gia đình Kitô giáo tại Chicago, lớn lên và học ở chủng viện. Tôi luôn nghĩ rằng mình là một tín đồ Kitô giáo, đặc biệt trong truyền thống Kitô giáo La Mã.

Fox:Ông nghĩ rằng ông là một Phật tử-Kitô hay là một Kitô-Phật tử?

Paul F. Knitter:Hẳn nhiên đứng về danh từ thì là Kitô giáo hay Công giáo; nhưng đứng về phương diện tính từ thì là Phật tử. Có thể nói tôi là một Kitô-Phật tử. Nguồn gốc ban đầu của tôi là một người Công giáo.

Fox:Là một nhà Thần học Cơ Đốc, sự quan hệ chính thức của ông đối nhà thờ là như thế nào?

Paul F. Knitter:Tôi nghĩ tôi là một thành viên có khá nhiều uy tín của Hội Thần Học Công Giáo Mỹ. Tôi thực tập đạo Công giáo. Liên hệ của tôi đối với nhà thờ, theo tôi nghĩ cho đến bây giờ, vẫn tốt. Nhưng thẳng thắn và thành thật mà nói, tôi đã nhận sự cảnh cáo, sự nhắc nhở chung chung từ đức Giáo Hoàng Benedict lúc ngài còn là đức Hồng Y Joseph Ratzinger. Trong cuốn sách nói về những tôn giáo khác, ngài đã đề cập về tôi như là một trong những người đại diện cho khuynh hướng có thể dễ dàng rơi vào chủ thuyết tương đối. Tôi đang làm việc trong một lãnh vực có khá nhiều sự tranh cãi, cụ thể là làm thế nào để Kitô giáo có thể thấy được chính mình trong ánh sáng của các tôn giáo khác.

Fox:Trong sách của ông, ông có nói đến cụm từ “Tôi thực tập theo cả hai - double belonging.” Điều đó nghĩa là sao?

Paul F. Knitter:"Tôi thực tập theo cả hai"(double belonging) hiện nay đang được nói đến rất nhiều, ngay cả trong hàn lâm viện Thần học và trong giới tâm linh Kitô giáo. Tôi nghĩ nó là từ ngữ đã được sử dụng khi càng ngày càng có nhiều người thấy rằng họ thật sự được nuôi dưỡng bởi nhiều truyền thống tôn giáo hơn là một truyền thống tôn giáo, bởi nhiều truyền thống gia đình hơn là một truyền thống gia đình, bởi nhiều truyền thống địa phương hơn là một truyền thống địa phương.

Fox:Hiện tượng thực tập theo cả hai (double belonging) đang lan rộng tới mức nào?

Paul F. Knitter:Tôi không nghĩ tôi nói điều này cho tất cả mọi người, nhưng trong các khu vực châu Âu và Bắc Mỹ, tôi cho rằng số người thực tập một cách nghiêm túc đức tin của họ đang tìm thấy rằng ở mức độ nào đó trong quá trình thực tập theo cả hai truyền thống tôn giáo... đang càng ngày càng trở thành một phần của đời sống họ.

Fox:Tại sao thời nay những tín đồ Kitô giáo có sự thích thú lớn rộng đối với đạo Phật như thế?

Paul F. Knitter:Có nhiều lý do. Trong cuốn sách này, tôi có trích đoạn của một người bạn của tôi, Fr. Michael O’Halloran, trước đây là một vị thầy tu dòng Carthusianvà bây giờ là Linh mục ở một địa phận thuộc quyền cai quản của một tổng giám mục tại Nữu Ước. Anh cũng là một vị thầy dạy thiền. Có lần Michael nói với tôi rằng đạo Kitô có bề dày về nội dung nhưng thiếu sót về phương pháp và kỹ thuật thực hành. Do đó tôi nghĩ đạo Phật cống hiến cho các tín đồ Kitô giáo những kỹ thuật, những pháp môn thực tập thực tiễn để họ có thể thâm nhập vào cái nội dung, thực tại bằng chính kinh nghiệm tu tập bản thân của họ về những gì họ tin.

Fox:Theo ông nghĩ thì những tín đồ Kitô giáo cần cái gì nơi đạo Phật?

Paul F. Knitter:Mong rằng tôi không khái quát hóa quá nhiều, nhưng tôi nghĩ điều này phải có liên quan đến sự không thỏa mãn mà những người theo đạo Kitô chúng ta cảm nhận đối với Thượng Đế, một vị được nhận thức là hoàn toàn nằm ở ngoài kia, một Thượng Đế hoàn toàn ngoài tôi, khác với tôi, một Thượng Đế đứng độc lập ngoài tôi và đương đầu với tôi. Tôi nghĩ chúng ta đang kiếm tìm những pháp môn thực tập như thế nào đó để có thể nhận ra một Thượng Đế thiêng liêng, siêu việt, một Thượng Đế không gì khác hơn là một phần của chính mình.

Tôi nghĩ những tín đồ Kitô giáo đều đang tìm kiếm con đường, phương pháp thực nghiệm để thấy được Thượng Đế trong một khuynh hướng đoàn kết, hợp nhất, hoặc điều tôi nói trong sách là “con đường hay cái nhìn bất nhị - non-dual way,” nơi mà Thượng Đế trở thành một thực tại tất nhiên khác biệt tôi, nhưng là một phần của chính hiện hữu tôi.

Fox:Đạo Phật không xác nhận sự có mặt của Thượng Đế. Đạo Phật đã được mô tả như là một tôn giáo “vô thần”. Làm thế nào đạo Phật có thể có tầm quan trọng lớn cho một tôn giáo hữu thần như Kitô giáo?

Paul F. Knitter:Chúng ta phải thật cẩn thận với cách chúng ta sử dụng chữ “vô thần.” Hẳn nhiên đạo Phật không xác nhận sự có mặt của một Thượng Đế cá biệt, độc lập, nằm ngoài sự vật, nhưng tôi nghĩ cái thuật ngữ hay hơn có lẽ là “phi hữu thần” hơn là “vô thần”. Đạo Phật không phủ nhận Thượng Đế, nhưng có lẽ nếu tôi diễn đạt theo cách này, thì Phật và rất nhiều giáo điển Phật dạy chú trọng đến sự chứng ngộ cái thực tại bản môn - thực tại bất sinh bất diệt, không một không khác, không trong không ngoài... hơn là định nghĩa và miêu tả, đặt tên. Khi bạn hỏi Phật, “Ngài thuộc về phạm trù nào sau khi ngài đã giác ngộ hay khi ngài chứng được niết bàn?” Một trong những thuật ngữ hoặc tư tưởng đã được sử dụng là sunyata, nghĩa là không - trống rỗng. Đó không phải là một diễn giải hay, nhưng nó là chữ họ sử dụng để nhận diện rằng thực tại bản môn không phải là một thực thể thường hằng bất biến, một hiện hữu trường tồn, biệt lập, nhưng đúng hơn là cái mà họ gọi là tương quan tương duyên, tương tại, tương kết của mọi sự mọi vật. Hoặc như vị Thiền sư Việt Nam, Thích Nhất Hạnh sử dụng thuật ngữ “tương tức” để diễn bày cái thực tại bản môn. Đạo Phật đã giúp tôi khám phá trở lại sâu sắc hơn cái nghĩa lý mà trong kinh Tân Ước, có lẽ nó là cái định nghĩa duy nhất về Thượng Đế mà chúng ta thấy khi kinh nói rằng “Thượng Đế là tình thương.”

Tôi nghĩ giáo lý “tương tức” của đạo Phật giúp tôi nắm bắt, khái niệm được cái mà trong thuật ngữ Kitô giáo chúng ta muốn nói khi chúng ta nói thực tại thiêng liêng là tình thương, và điều đó đã mở đường cho tôi và tôi nghĩ cũng cho rất nhiều tín đồ Kitô biết cách nắm bắt, khái niệm trở lại một trong những biểu tượng chính về Thượng Đế, đó là linh hồn.

Như vậy đối với tôi bây giờ khi nói chữ “Thượng Đế”, những gì tôi khái niệm, hình dung, cảm nhận, thật phải cảm ơn đạo Phật, là một linh hồn tương tức tương nhập – linh hồn bất tử này, cái bất tử, năng lượng tương tức này không phải là một con người, nhưng rất cá biệt, ấy là cái mầu nhiệm chung quanh tôi, chứa đựng tôi, ôm lấy tôi, và là cái mà tôi tiếp xúc được trong Bí tích thánh thể, trong các lễ lược tụng niệm, và đặc biệt là trong thiền tập.

Fox:Phật là người giác ngộ; Chúa Kitô là thánh linh. Đó là một sự khác biệt lớn, đúng không?

Paul F. Knitter:Đúng vậy. Đó là sự khác biệt lớn. Trước hết, khi chúng ta nhìn vào ngôn ngữ mà chúng ta, những tín đồ Kitô Giáo, sử dụng để nói về sự mầu nhiệm của Chúa Kitô, có lẽ hai chữ nguyên sơ mà chúng ta sử dụng hoặc chủ thuyết mà chúng ta chứng nhận rằng Chúa Kitô là đức Chúa Con và đức Kitô là Chúa Cứu Thế. Bây giờ hai danh từ ấy, Đức Chúa Con, đức Chúa Cứu Thế, đều là những gì chúng ta tin. Những biểu đạt này là những cố gắng của chúng ta nhằm đưa sự mầu nhiệm của Thượng Đế vào ngôn từ. Tất cả những ngôn từ đều là những nỗ lực của chúng ta cố gắng diễn đạt thành lời những cái mà không bao giờ có thể được hoàn toàn diễn đạt bằng lời. Nói cách khác, chúng ta đang sử dụng những biểu tượng, chúng ta đang sử dụng những ẩn dụ, chúng ta đang sử dụng những suy luận để miêu tả Thượng Đế. Điều này đi thẳng trở lại với Thánh Thomas Aquinas và thầy của tôi, Karl Rahner. Tất cả ngôn ngữ của chúng ta đều mang tính ước lệ, tượng trưng.

Fox:Như vậy, khi những tín đồ Kitô giáo nói rằng Chúa Kitô đã đến cứu chúng ta, chúng ta không phải chỉ nói như thế, phải không?

Paul F. Knitter:Chúng ta đang nói một điều gì đó rất chân thật, điều mà chúng ta đã kinh nghiệm qua, nhưng chúng ta không bao giờ có thể nắm bắt được cái thực tại tròn đầy của Chúa Kitô hay của Thượng Đế bằng những ngôn từ ấy. Hơn nữa, hãy sử dụng ý tưởng đạo Phật như đạo Phật đã thường sử dụng: ngôn từ chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng chứ không phải là mặt trăng của tự thân. Ngôn từ không bao giờ có thể được đồng nhất trọn vẹn với cái thực tại đang phơi bày mầu nhiệm.

Fox:Ông viết rằng những tín đồ Kitô giáo cần một bí tích thứ tám. Xin hãy giải thích.

Paul F. Knitter:Điều này có lẽ đã là một yếu tố then chốt mà tôi và nhiều người khác đã học được từ đạo Phật: sự quan trọng của im lặng. Trong một trạng thái thiền định chúng ta nhận ra rằng cái mầu nhiệm của Thượng Đế là điều không thể nắm bắt được một cách dễ dàng bằng sự suy tưởng.

Điều này ăn khớp với thần học bí tích trong Công Giáo chúng ta. Chúng ta nói rằng mỗi cái Lễ chứa đựng vật thể và hình thức. Như vậy, vật thể trong sự im lặng của bí tích là hơi thở của mình, là ý thức về hơi thở của mình, là trở thành một với hơi thở, là không làm gì cả mà chỉ thở thôi.

Fox:Có vài lần trong sách, ông trích dẫn lời của Thích Nhất Hạnh, vị Thiền sư người Việt Nam. Ông viết, lặp lại lời của Nhất Hạnh, rằng: muốn thực hiện hòa bình, trước hết bản thân của chúng ta phải sống hòa bình. Đảo lại lời tuyên bố của Đức Giáo Hoàng Paul VI, rằng: nếu chúng ta muốn công bằng, chúng ta phải tìm kiếm hòa bình. Phải vậy không?

Paul F. Knitter:Nhà tôi và tôi đã bỏ nhiều thời gian vào những năm 80 và 90 hoạt động ở El Salvador cho hòa bình trong thời chiến tranh. Như vậy chúng tôi đã hoạt động cho hòa bình suốt cả cuộc đời của chúng toy - suốt thời gian 20 năm ấy chúng tôi đã là những nhà hoạt động cho hòa bình, những nhà hoạt động cho xã hội. Nhưng khi nhìn trở lại thời gian hành động ấy, tôi nhận thấy những hành động ấy của chúng tôi thường chứa đầy những lời nói bạo động.

Trong thời gian ấy chúng tôi đã phải cưỡng lại, phải đương đầu với những cấu trúc xấu ác. Có những cấu trúc xấu ác thật, nhưng cũng có cái gì đó thiếu hụt trong tôi. Cái thiếu hụt ấy tôi đã nhận ra được trong một kinh nghiệm mà tôi đã có vào năm 1986 hoặc 1987 khi tôi tham dự một khóa tu thiền với Roshi Bernie Glassman.

Trong thời gian khóa tu tôi nói với Glassman rằng chúng tôi sẽ đi xuống El Salvador để cố gắng làm cái gì đó nhằm ngăn chặn những hiện tượng chết hàng loạt khủng khiếp. Ông nói: “Đúng vậy, quý vị phải ngăn chặn những hiện tượng chết hàng loạt, nhưng đồng thời quý vị cũng phải tu, phải thiền tập bởi vì quý vị sẽ không bao giờ ngăn chặn được sự cố ấy nếu quý vị chưa nhận ra được mình chính là họ, mình là một với họ, mình tương tức với họ”.

Đó là sự giác ngộ mà đạo Phật mời gọi chúng ta hướng về, sự giác ngộ thâm sâu bằng chính bản thân về tuệ giác tương tức tương nhập, tương quan tương duyên với tất cả mọi loài, ngay cả đối với những ai mình đã và đang chống đối và xem họ như là những kẻ đàn áp, áp bức, như là những thủ phạm của sự xấu ác. Chúng ta là một, tương tức với họ. Đây là những gì thầy Thích Nhất Hạnh muốn nói khi Thầy nói rằng chúng ta phải có an bình ngay trong chính bản thân của chúng ta. Chúng ta phải vượt thắng cái vỏ ốc bản ngã của chúng ta và nhận ra được sự tương quan tương duyên, tương tức của mình đối với tất cả mọi loài.

Fox:Ông có viết, “Đối với những người Phật tử, tính ích kỷ không phải là tội lỗi mà là chính cái ngu dốt.” Điều đó nghĩa là gì?

Paul F. Knitter:Đây là một khía cạnh, theo tôi nghĩ, đặc biệt được đánh giá cao hoặc rất cần đối với nhiều người Kitô giáo. Đối với đạo Phật, và tôi cũng muốn nói cho Kitô giáo nữa, tính chất nền tảng của chúng ta rất tốt. Tính chất nền tảng của chúng ta là tính Phật (Phật tính), ấy là chúng ta là một phần của vũ trụ vạn hữu, tương tức, chúng ta là một đại thể tương quan tương duyên, tương tác, chúng ta được mời gọi trở về để nhận biết về cái thực tại mầu nhiệm ấy và để hành động bằng tình thương, bằng lòng từ bi, nhân ái.

Nhưng vấn đề là chúng ta không nhận ra được chân lý này. Bởi vì chúng ta không nhận ra được chân lý này, bởi chúng ta nghĩ rằng chúng ta là những cá thể biệt lập thay vì là một hợp thể tương quan tương duyên, chúng ta nghĩ chúng ta phải bảo vệ chính chúng ta. Chúng ta nghĩ chúng ta phải thủ đắc cái gì đó để củng cố nguồn gốc, bản ngã của chúng ta và vì thế chúng ta hành động một cách ích kỷ. Chúng ta hành động ích kỷ không phải vì chúng ta mất mát, không phải vì chúng ta xấu ác trong bản chất mà do vì chúng ta vô minh.

Fox:Ông có viết rằng trong tương lai, những người tin theo Kitô giáo sẽ trở thành mầu nhiệm hoặc họ sẽ không trở thành cái gì cả. Ông nói như vậy nghĩa là sao?

Paul F. Knitter:Đó là một sự trích dẫn thiếu chặt chẽ từ thầy của tôi, Karl Rahner. Những gì thầy tôi khám phá ra là thế này: Có quá nhiều sự thách thức và khó khăn mà chúng ta đối diện, rằng nếu nguồn gốc của chúng ta không được dựa trên kinh nghiệm của chính mình về Thượng Đế, nếu Thượng Đế không phải là một phần của họ (Kitô hữu), nếu họ không phải là một với Chúa Kitô, nếu Chúa Kitô không phải là chính cái hiện hữu của họ, thì họ sẽ không có khả năng tìm thấy được sức mạnh, sức nhẫn nại và có tuệ giác để bước vào cái cõi thênh thang ấy hay gọi là Nước Chúa.

Fox:Ông có viết trong sách rằng đạo Phật đã giúp ông nhìn kỹ vào sự mầu nhiệm sau cái chết. Vậy sau cái chết và sống là gì?

Paul F. Knitter:Đối với tôi, có lẽ đó là cái hữu ích nhất, nhưng có thể là phần gây sự tranh cãi nhiều nhất trong cuốn sách của tôi. Đạo Phật nói với chúng ta rằng ngay trong kiếp hiện tại này, con người thật của mình, hạnh phúc chân thực của mình, là phải vượt thoát khỏi cái tính chất cá thể của mình, tức là cái bản ngã. Tôi nghĩ điều đó cộng hưởng với câu nói trong Phúc Âm: “Nếu hạt lúa mì không thật sự rơi xuống đất và chết đi, thì nó sẽ không tái sinh và đơm hoa kết trái”. Đạo Phật đã dẫn dắt tôi nhìn sâu hơn vào cái trạng thái mà đạo Phật muốn nói hoặc Chúa Kitô muốn nói, khi ngài nói: “Bạn sẽ không tìm ra được chính mình nếu bạn không đánh mất chính mình”.

Điều này đã giúp tôi nhận diện ra một cái gì đó mà đối với tôi hình như thỏa mãn hơn, ấy là sự sống chờ tôi sau khi tôi chết để tôi sẽ vẫn tiếp tục hiện hữu, sự hiện hữu đó vượt thoát cái hiện hữu biệt lập này của tôi, một hình tướng Paul Knitter. Tôi sẽ tiếp tục có mặt (biểu hiện), nhưng chắc chắn tôi sẽ không có mặt y hệt như là hình tướng của Paul Knitter. Nói cách khác, đời sống của chúng ta trong tương lai sau khi chết là một hình thái biểu hiện siêu việt tính chất cá thể biệt lập. Điều đó không có nghĩa là tôi bị tiêu diệt, trở thành hư vô; điều đó không có nghĩa rằng tôi không còn hiện hữu, nhưng tôi sẽ hiện hữu trong một sự chuyển biến triệt để, chuyển cái hiện hữu như một cá thể biệt lập, tức là cái ngã hiện hữu nằm riêng lẽ ngoài mọi sự mọi vật khác.

(Phật Giáo Thảo Đường)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/12/2016(Xem: 24483)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13348)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
30/04/2016(Xem: 15644)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 31630)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
04/03/2016(Xem: 15075)
Trong thời gian làm việc tại Thư viện Thành hội Phật giáo đặt tại chùa Vĩnh Nghiêm, quận 3, tôi gặp được cuốn Tôn Giáo Học So Sánh của Pháp sư Thánh Nghiêm biên soạn. Do muốn tìm hiểu về các tôn giáo trên thế giới đã lâu mà vẫn chưa tìm ra tài liệu, nay gặp được cuốn sách này tôi rất toại ý.
04/03/2016(Xem: 11567)
Đọc sách là niềm vui của tôi từ thời còn đi học cho đến nay, chưa bao giờ ngơi nghỉ. Nếu sách hay, tôi chỉ cần đọc trong một hay hai ngày là xong một quyển sách 500 đến 600 trang. Nếu sách khó, cần phải nhiều thời gian hơn thì mỗi lần tôi đọc một ít. Còn thế nào là sách dở? xin trả lời ngắn gọn là: Sách ấy không hợp với năng khiếu của mình. Dĩ nhiên khi một người viết sách, họ phải đem cái hay nhất, cái đặc biệt nhất của mình để giới thiệu đến các độc giả khắp nơi, cho nên không thể nói là dở được. Cuối cùng thì dở hay hay tùy theo đối tượng cho cả người viết lẫn người đọc, là tác giả muốn gì và độc giả muốn học hỏi được gì nơi tác phẩm ấy. Tôi đọc Đại Tạng Kinh có ngày đến 200 trang nhưng vẫn không thấy chán, mặc dầu chỉ có chữ và chữ, chứ không có một hình ảnh nào phụ họa đi kèm theo cả. Nhiều khi nhìn thấy trời tối mà lo cho những trang Kinh còn lỡ dở chưa đọc xong, phải vội gấp Kinh lại, đúng là một điều đáng tiếc. Vì biết đâu ngày mai đọc tiếp sẽ không còn những đoạn văn hay tiếp
26/01/2016(Xem: 12263)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
15/12/2015(Xem: 6604)
Yêu thương hay thù oán không chỉ là tình riêng cuả mỗi con người mà còn là một cảm xúc chính trị. Đã có nhiều thí dụ cho thấy là các hiệu ứng của cảm xúc này lan toả đến hệ thống pháp luật, mà đòi công lý hay tự thiêu của dân oan tại Việt Nam là trường hợp phổ biến. Thực ra, trong bất cứ một nền tảng công lý nào thì điểm chính yếu cũng là phải tìm ra một hệ thống luật pháp công minh và tinh thần trọng pháp của người dân và chính quyền để áp dụng trong thực tế.
09/12/2015(Xem: 7235)
Theo đa số các nhà nghiên cứu, thực trạng nóng lên toàn cầu (global warming) hoặc biến đổi khí hậu toàn cầu (global climate change) là có thật và ngày càng gia tăng một cách trầm trọng. Nguyên nhân chính là sự gia tăng quá nhanh trong việc thải khí cạc-bon đi-ô-xít (carbon dioxide) trong vòng 30 năm qua do đốt nhiên liệu hóa thạch, fossil fuels (Cox, P. M., et al., 2000), cũng như những hoá chất khác không phải do hoá học hữu cơ (Hansen, J., et al., 2000), và vì nhu cầu sinh hoạt của con người từ sự nhả khói và khí độc của các hãng xưởng công nghệ lớn nhỏ, xe ô-tô cho đến nạn phá rừng, các trại chăn nuôi súc vật đến chất liệu phế thải của các nhà máy thuỷ điện, v.v...
03/12/2015(Xem: 27294)
Đức Phật lịch sử tuyên bố trên internet rằng: "Như Lai không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Như Lai mà thôi. Những gì người trí chấp nhận, Như Lai chấp nhận." Sư Triệu Châu mang bát gậy dạo khắp các tùng lâm và tự khuyên mình như sau: 七歲童兒勝我者、我即問伊。百歲老翁不及我者、我即教他。Trẻ con bảy tuổi hơn ta thì ta hỏi nó, ông già trăm tuổi chẳng bằng ta thì ta dạy va."
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567