Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thảo Luận Về Khoa Học Thần Kinh

21/01/201306:39(Xem: 5147)
Thảo Luận Về Khoa Học Thần Kinh

Thảo Luận Về Khoa Học Thần Kinh 
Hội đàm Tâm thức và Đời sống ngày thứ ba
Phúc Cường trích dịch

Sự nhận thức quan trọng này gợi ý cho chúng ta rằng nếu có thể dạy cho trẻ em thực hành kỷ luật khi còn nhỏ, thì sẽ đem lại lợi ích cho bản thân các em khi trưởng thành và cho xã hội.

Drepung Lachi, Mundgod, Karnataka, Ấn Độ, ngày 19 tháng một năm 2013 - Trong khi các diễn giả đến từ Viện Tâm thức và Đời sống đang gặp gỡ với Đức Đạt Lai Lạt Ma trong ngôi bảo điện Lachi Drepung cùng với khoảng 900 chư tăng ni, học sinh trung học và khách quốc tế, thì khoảng 5000 chư tăng và thính chúng theo dõi ở phía dưới tại hội trường Drepung Loseling. Các bài thuyết trình chủ yếu bằng tiếng Anh và được dịch trực tiếp sang tiếng Tây Tạng cho những người nghe trên radio FM. Có rất nhiều màn hình chiếu cho những người không thể tham dự trực tiếp. Trên website trực tuyến một lượng thính chúng theo dõi ổn định khoảng hơn 1100 người.

Chủ đề tổng thể ngày thứ ba là Khoa học Thần kinh và buổi sáng thảo luận về Thay đổi Bộ não. Sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma hiện diện, ban phước cho các Lạtma, các diễn giả và an tọa, Tiến sĩ Tâm lý và Tâm thần học Richie Davidson, người đã tham gia vào các hội đàm Tâm thức & Đời sống trong hơn hai mươi năm qua, đã bắt đầu bài thuyết trình:

"Có hai sự điều chỉnh về cảm xúc và sự chú tâm liên quan tới thực hành chính niệm. Tôi sẽ tập trung bàn về các mạch thần kinh có liên quan và ảnh hưởng của việc rèn luyện tinh thần ".

2013-01-19-Mundgod-N06

Đức Đạt Lai Lạt Ma và Richie Davidson trong ngày thứ ba Hội đàm Tâm thức và Đời sống lần thứ 26 tại Tự viện Drepung ở Mundgod, Ấn Độ, vào ngày 19 Tháng Một năm 2013. Photo / Tenzin Choejor / OHHDL

Ông trích dẫn quan điểm sâu sắc của William James về sự chú tâm. James giả định rằng khi chúng ta nhìn thấy một con hổ, thông tin sẽ đi lên vỏ não, đi xuống nội tạng, nhịp tim tăng nhanh, và nỗi sợ hãi sẽ phát sinh tiếp sau đó khi tín hiệu quay trở về não. Bộ não nhận ra rằng cơ thể bị kích động. Đức Đạt Lai Lạt Ma đặt câu hỏi về một loạt các sự kiện này bởi ngài được biết rằng cùng với nỗi sợ hãi máu sẽ dồn xuống chân làm cho chúng ta bỏ chạy và cùng với sự sân giận máu sẽ dồn vào tay làm cho chúng ta kình chống lại. Tiến sĩ Richie Davidson giải thích rằng các thử nghiệm được thực hiện sau khi đã loại bỏ yếu tố bản năng, điều đó cho thấy rằng James đã đúng một phần. Sau ông, James Papez là người đầu tiên nhận biết các mạch trong não có liên quan đến cảm xúc.

Quan điểm cổ điển cho rằng chức năng cảm xúc được xử lý bên ngoài vỏ não. Các nghiên cứu về những người lính bị thương trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai cho thấy những ai bị hư thùy trán thì cảm xúc sẽ suy giảm. Điều này chứng tỏ rằng vỏ não, đặc biệt là vỏ não phía trước đóng một vai trò quan trọng đối với cảm xúc. Theo quan điểm hiện đại ngày nay thì khả năng điều chỉnh cảm xúc nằm trong vỏ não phía trước.

Tiến sĩ Richie nhắc về một thử nghiệm cho trẻ em từ 5 đến 6 tuổi ăn kẹo với điều kiện là chúng ăn ngay lập tức, nhưng nếu yêu cầu chúng có thể chờ năm phút thì sẽ được cho ba chiếc kẹo. Những trẻ có khả năng kiềm chế sẽ có xu hướng thành công khi trưởng thành.

"Sự nhận thức quan trọng này gợi ý cho chúng ta rằng nếu có thể dạy cho trẻ em thực hành kỷ luật khi còn nhỏ, thì sẽ đem lại lợi ích cho bản thân các em khi trưởng thành và cho xã hội."

Đức Đạt lai Lạt ma đặt câu hỏi rằng vậy thử nghiệm có thành công nếu, thay vì mang một phần thưởng, thì các em được cảnh báo rằng sẽ bị trừng phạt nếu không chờ đợi.

Tiến sĩ Richie cho rằng hệ thần kinh không mang tính chất tốt hay xấu, nó trung tính, nhưng khi tiếp xúc với những ảnh hưởng tích cực thì dẫn đến những thay đổi tích cực. Đức Đạt Lai Lạt Ma đặt vấn đề mặc dù vậy nhưng hệ thần kinh có thể được giải thích trong phạm vi ảnh hưởng tiêu cực, nó có thể diễn ra tương tự.

“Có những tế bào thần kinh chỉ kích động trong các tình huống tích cực hay thậm chí với những con người tích cực, trong khi có những tế bào lại bị kích động trong các tình huống tiêu cực."

Ba loại chú tâm đã được đề cập tới: cảnh báo, định hướng và kiểm soát, chúng đã được nghiên cứu với một số trẻ em đang thực hành thiền định vipassana trong khoảng thời gian 3 tháng. Kết quả ghi nhận có những tiến bộ dẫn tới tâm thức tĩnh tại và mức độ chú tâm cao hơn.

Tiến sĩTania Singer, chuyên gia lĩnh vực Tâm lý và Thần kinh học, đã thuật lại công việc quản lý một chương trình rèn luyện nuôi dưỡng lòng từ bi. Cô nói rằng họ muốn xác định rõ từ bi là gì thông qua những thử nghiệm linh hoạt bởi các tiến trình khác nhau có kinh mạch tương ứng khác nhau trong bộ não.

"Nếu ngài đặt câu hỏi, làm sao để tôi biết được bạn cảm thấy như thế nào? Có nhiều con đường khác nhau: con đường cảm xúc dựa vào sự cảm thông và lòng từ bi, con đường lý trí thì thông qua tri ​​thức dựa trên sự suy luận."

Tình cảm bao gồm lòng nhân ái, sự biết ơn, sự quan tâm và nồng nhiệt, trong khi những phản ứng thuộc về lý trí, mà bà lập luận phù hợp hơn với quan kiến điểm Phật, bao gồm trí nhớ và sự hiểu biết, hay sự nhận thức rõ về những gì mình đang làm. Cô cũng đề cập đến việc xem xét kỹ cơ sở gen di truyền của các chủ thể và đặc điểm môi trường bên ngoài. Các bộ phận khác nhau của não có thể được xác định một cách rõ ràng thông qua những phản ứng khác nhau. Cô lập luận:

"Chúng ta có rất nhiều bằng chứng cho thấy việc quan sát các cảm xúc của người khác sẽ kích thích các vùng cảm xúc tương ứng trong chúng ta. Chúng tôi đã thử nghiệm Mathieu Ricard qua một máy nội soi và yêu cầu ông thể hiện các trạng thái tinh thần khác nhau, như các trạng thái của tâm từ bi, lòng từ không phân biệt, tâm từ, tâm bi. Tôi có thể nhìn thấy các dấu hiệu từ sự nội soi não khi ông đang nuôi dưỡng sự đồng cảm với những khổ đau của người khác, và chúng tôi đã nhận một tín hiệu khác khi ông thể hiện lòng bi mẫn."

Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận xét:

"Nói chung, nếu bạn nhìn vào lòng bi mẫn, tình yêu thương, sẽ có một khát khao hay mong muốn các đức tính này mang lại hiệu quả nhiều hơn, vì vậy các đức tính đó cần phải được soi đường bởi trí tuệ, sự hiểu biết và các động cơ tích cực".

Vào khóa hội đàm buổi chiều, Tiến sĩ Richie Davidson đặt câu hỏi về trí thông minh lên đức Đạt Lai Lạt ma.

2013-01-19-Mundgod-N04

Đức Đạt Lai Lạt Ma chia sẻ với Tania Singer trong bài thuyết trình của bà tại Hội đàm Tâm thức và Đời sống lần thứ 26 tại tự viện Drepung ở Mundgod, Ấn Độ, ngày 19 tháng một năm 2013. Photo / Tenzin Choejor / OHHDL

"Theo nhận thức của khoa học thần kinh hiện tại, quan điểm chính thống về trí thông minh là phải được đo bằng một bài kiểm tra IQ, trong đó bao gồm 6 bộ kiểm tra bằng lời nói và 6 bộ phi ngôn ngữ. Quan điểm của ngài về trí thông minh, có khả năng xử trí được trong các tình huống khác nhau, mang một ý nghĩa phong phú hơn nhiều. Về mặt di truyền, khu vực phía trước não có ảnh hưởng lớn đến sự tương quan trung tính của trí thông minh."

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đặt câu hỏi quan điểm về trí thông minh qua rèn luyện. Tiến sĩ Richie trả lời có thể đào tạo một người trong phạm vi bộ nhớ, ghi nhớ những con số và trong phạm vi tương tự như vậy. Ông nói rằng vấn đề này liên quan tới trí nhớ hơn là trí thông minh, nhưng Giáo sư Christof chỉ ra rằng một trí nhớ nhanh nhạy cũng là một chỉ số được chấp nhận của trí thông minh. Tania cũng thêm rằng có những thuật ngữ khác nhau được sử dụng: trí thông minh liên quan đến khả năng ghi nhớ và trí thông minh liên quan đến khả năng phát sinh các ý tưởng và áp dụng chúng. Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận xét rằng có những người hiểu nhanh, nhưng lại không giỏi tranh biện, những người khác có khả năng hiểu sâu về sự vật, có những người có trí thông minh mau lẹ hay sắc bén v.v…

Tiến sĩ Richie giải thích rằng nhiều rắc rối của con người đều liên quan đến 'sự dính mắc tình cảm'. Trong các thí nghiệm liên quan đến thiền định về lòng bi mẫn cho kết quả, những người bình thường không có kinh nghiệm thiền định trước đó đã vượt ra khỏi sự dính mắc tốt hơn. Ông kết luận rằng một số người phương Tây đã lo lắng nhiều hơn khi bắt đầu. Mặt khác những thành viên tham gia thực hành chính niệm giảm stress cho thấy không chỉ giảm tress, mà hạch hạnh, phần của bộ não liên quan đến kiểm soát thời gian và cường độ của cảm xúc tiêu cực, cũng nhỏ hơn.

Ông nhớ lại một dịp vào năm 1992 khi ông cùng với đồng nghiệp trong khoa học thần kinh chia sẻ với một nhóm chư tăng. Họ quyết định thuyết minh công việc đo các hoạt động của bộ não khi thực hành tâm từ bi như thế nào. Giáo sư Francisco Varela được đính các dây với các điện cực để làm thí nghiệm. Khi chư tăng quay lại, họ nhìn thấy ông ta và đã phá lên cười. Tiếng cười không phải do thấy Francisco trông rất khôi hài mà cười về ý tưởng có thể đo lường lòng từ bi bằng đính dây điện thí nghiệm lên đầu.

2013-01-19-Mundgod-N05
Geshe Dadul Namgyal đang thuyết trình tại hội đàm Tâm thức và Đời sống XXVI tại tự viện Drepung ở Mundgod, Ấn Độ, trên January19, 2013. Photo / Tenzin Choejor / OHHDL

Tiến sĩ Tania Singer đã thuyết trình về việc chúng ta sử dụng các quá trình nhận thức như thế nào khi nói đến tâm từ bi và hành vi. Tất cả các quá trình nhận thức có một sự tương ứng trong não liên quan đến không chỉ các tế bào thần kinh, mà cả các gen sản xuất ra các tế bào và kinh mạch. Cô đưa ra ba loại hệ thống động lực của con người, động lực thúc đẩy hành vi: một hệ thống tìm kiếm hoặc ngăn ngừa; hệ thống đe dọa và một hệ thống chăm sóc hay tình cảm. Cô đã thảo luận việc giải phóng các hoóc môn như oxytocin đã làm giảm kích hoạt hạch hạnh (amygdala) và nói rằng vấn đề là vậy việc tập trung vào lòng từ bi có thể có tác dụng tương tự hay không? Phát hiện của cô đến nay cho thấy việc rèn luyện tâm từ bi thực sự mang lại những thay đổi có thể quan sát được trong mạng lưới bộ não và làm tăng hạnh phúc.

Geshe Dadul Namgyal đã kết thúc một ngày với những thuyết trình rất phong phú bằng quan điểm của Phật giáo về thần kinh học và hệ thần kinh. Ngài đã định nghĩa đó là khả năng của bộ não, của các tế bào thần kinh, kinh mạch, v.v… tạo thành các cấu trúc và thậm chỉ các chức năng mới. Ngài đã điểm lại các quan điểm và đưa ra nhận xét rằng hạnh phúc không phải là một thứ cố định như: có hoặc không, mà là một kỹ năng, thứ mà chúng ta có thể học hỏi được. Nhìn hệ thần kinh từ quan điểm Phật giáo, ngài đề cập đến hợp thể thân-tâm và cho rằng chính nghiệp đã kết nối tâm và thân. Ngài đưa ra một trích dẫn trong kinh văn liệt kê 8 tính chất của cơ thể với kết luận đáng kinh ngạc rằng bộ não là bản chất của tâm.

Thay vì tập trung đến bộ não, Geshe Dadul bàn về tâm với bản chất hiểu biết và rực rỡ chiếu sáng phi vật chất. Tất cả các sự kiện ý thức đều là cảm giác hoặc tinh thần.Tất cả các sự kiện tại một thời gian nhất định đều bao gồm tâm và các thức, sự tỉnh thức ở mức căn bản và ở mức thô. Ngài minh họa điều này với sơ đồ nhiều màu sắc sinh động mô tả tâm căn bản, không bị vướng mắc bởi hợp thể năm uẩn biến hành và các duyên phát khởi những xúc tình yêu thương hay thù hận, đức hạnh hay ác hạnh. Ngài đã trình bày rõ tính phức tạp của các tiến trình vận hành trong tâm với phần kết luận được toàn thể thính chúng nhiệt thành tán thán.

Phúc Cường trích dịch
Nguồn: Datlailama.com/news

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/12/2016(Xem: 24612)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13408)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
30/04/2016(Xem: 15709)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 31764)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
04/03/2016(Xem: 15126)
Trong thời gian làm việc tại Thư viện Thành hội Phật giáo đặt tại chùa Vĩnh Nghiêm, quận 3, tôi gặp được cuốn Tôn Giáo Học So Sánh của Pháp sư Thánh Nghiêm biên soạn. Do muốn tìm hiểu về các tôn giáo trên thế giới đã lâu mà vẫn chưa tìm ra tài liệu, nay gặp được cuốn sách này tôi rất toại ý.
04/03/2016(Xem: 11612)
Đọc sách là niềm vui của tôi từ thời còn đi học cho đến nay, chưa bao giờ ngơi nghỉ. Nếu sách hay, tôi chỉ cần đọc trong một hay hai ngày là xong một quyển sách 500 đến 600 trang. Nếu sách khó, cần phải nhiều thời gian hơn thì mỗi lần tôi đọc một ít. Còn thế nào là sách dở? xin trả lời ngắn gọn là: Sách ấy không hợp với năng khiếu của mình. Dĩ nhiên khi một người viết sách, họ phải đem cái hay nhất, cái đặc biệt nhất của mình để giới thiệu đến các độc giả khắp nơi, cho nên không thể nói là dở được. Cuối cùng thì dở hay hay tùy theo đối tượng cho cả người viết lẫn người đọc, là tác giả muốn gì và độc giả muốn học hỏi được gì nơi tác phẩm ấy. Tôi đọc Đại Tạng Kinh có ngày đến 200 trang nhưng vẫn không thấy chán, mặc dầu chỉ có chữ và chữ, chứ không có một hình ảnh nào phụ họa đi kèm theo cả. Nhiều khi nhìn thấy trời tối mà lo cho những trang Kinh còn lỡ dở chưa đọc xong, phải vội gấp Kinh lại, đúng là một điều đáng tiếc. Vì biết đâu ngày mai đọc tiếp sẽ không còn những đoạn văn hay tiếp
26/01/2016(Xem: 12322)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
15/12/2015(Xem: 6622)
Yêu thương hay thù oán không chỉ là tình riêng cuả mỗi con người mà còn là một cảm xúc chính trị. Đã có nhiều thí dụ cho thấy là các hiệu ứng của cảm xúc này lan toả đến hệ thống pháp luật, mà đòi công lý hay tự thiêu của dân oan tại Việt Nam là trường hợp phổ biến. Thực ra, trong bất cứ một nền tảng công lý nào thì điểm chính yếu cũng là phải tìm ra một hệ thống luật pháp công minh và tinh thần trọng pháp của người dân và chính quyền để áp dụng trong thực tế.
09/12/2015(Xem: 7255)
Theo đa số các nhà nghiên cứu, thực trạng nóng lên toàn cầu (global warming) hoặc biến đổi khí hậu toàn cầu (global climate change) là có thật và ngày càng gia tăng một cách trầm trọng. Nguyên nhân chính là sự gia tăng quá nhanh trong việc thải khí cạc-bon đi-ô-xít (carbon dioxide) trong vòng 30 năm qua do đốt nhiên liệu hóa thạch, fossil fuels (Cox, P. M., et al., 2000), cũng như những hoá chất khác không phải do hoá học hữu cơ (Hansen, J., et al., 2000), và vì nhu cầu sinh hoạt của con người từ sự nhả khói và khí độc của các hãng xưởng công nghệ lớn nhỏ, xe ô-tô cho đến nạn phá rừng, các trại chăn nuôi súc vật đến chất liệu phế thải của các nhà máy thuỷ điện, v.v...
03/12/2015(Xem: 27345)
Đức Phật lịch sử tuyên bố trên internet rằng: "Như Lai không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Như Lai mà thôi. Những gì người trí chấp nhận, Như Lai chấp nhận." Sư Triệu Châu mang bát gậy dạo khắp các tùng lâm và tự khuyên mình như sau: 七歲童兒勝我者、我即問伊。百歲老翁不及我者、我即教他。Trẻ con bảy tuổi hơn ta thì ta hỏi nó, ông già trăm tuổi chẳng bằng ta thì ta dạy va."
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567