Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

41. Chư Căn Vô Khuyết 40 (Đại nguyện thứ 41 của Phật A Di Đà, bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong đại địch Covid-19)

13/06/202018:44(Xem: 16450)
41. Chư Căn Vô Khuyết 40 (Đại nguyện thứ 41 của Phật A Di Đà, bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong đại địch Covid-19)




Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay Sư Phụ giảng Đại Nguyện thứ41 Lờinguyện thứ 41: Chư Căn Vô Khuyết ( là 01 trong 48 Đại Nguyện của Pháp Tạng Tỳ Kheo

( vua Vô Tránh Niệm ) tiền thân của Đức Phật A Di Đà (khi 48 Đại Nguyện viên thành thì Ngài mới thành Phật ). Đại nguyện thứ bốn mươi mốt: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, khi nghe được danh hiệu đức Phật ADi Đà, thì được các căn đầy đủ, không bị khiếm khuyết, cho đến khi thành Phật.

Sư phụ giảng: Đại Nguyện thứ 41 của Đức Phật A Di Đà là một phần thưởng cho chư hành giả một khi vãng sanh về cõi giới của Ngài, không cần phải lo sợ bị khuyết tật hay bất cứ một thứ loại bệnh nào trên thân xác của con người, đây là phước đức sẵn có của hành giả.

Thân do cha mẹ sanh ra, thân đẹp hay xấu là do nghiệp đời trước của mình quyết định, còn kiến thức thế gian thành tựu học vấn ngoài đời và kiến thức giáo lý do 2 bậc thầy giáo thế gian truyền trao cho. Còn Kiến thức xuất thế gian nhờ những bậc Thầy tâm linh, thiện hữu tri thức giúp mình đạt đến giải thoát sanh tử luân hồi .

Sư phu dẫn lời dạy của Tổ Quy Sơn Linh Hựu : "... thời thời văn ư vị văn. Cố vân, sanh ngã giả phụ mẫu, thành ngã giả bằng hữu. Thân phụ thiện giả, như vụ lộ trung hành, tuy bất thấp y, thời thời hữu nhuận. Hiệp tập ác giả, trưởng ác tri kiến, hiểu tịch tạo ác, tức mục giao báo, một hậu trầm luân, nhất thất nhân thân, vạn kiếp bất phục”.

Có nghĩa là: "....thường được nghe điều chưa được nghe. Sanh ta là cha mẹ, tác thành nên ta là thiện hữu tri thức của ta. Gần gũi với bạn lành giống như đi trong sương khuya, tuy không thấy ướt áo mà dần dần thấm nhuần, còn chơi với kẻ ác, sẽ thêm ác tri kiến, sớm tối tạo ác, trước mắt chịu quả báo, chết rồi phải trầm luân trong sanh tử, một khi đã mất đi thân người rồi thì vạn kiếp, muôn kiếp khó tìm lại được thân".


Sư Phụ có nêu một trường hợp bẩm sinh khuyết tật Down syndrome, là một loại bệnh rối loạn di truyền gây bởi việc nhiễm sắc thể (Chromosome )21 bị thừa . Thông thường thì một em bé được sinh ra với 46 nhiễm sắc thể, nhưng những em bị Down có thêm một bản sao của nhiễm sắc thể 21, chính bản sao dư này đã thay đổi bộ não và cơ thể bé phát triển, gây những vấn đề nặng nề về cả thể chất và tinh thần cho bé.

Trong quá trình mang thai, bác sĩ chụp x-ray để phát hiện rằng bào thai có bị down hay không.Y học là quá trình học học và nghiên cứu từ khả năng con người. Có trường hợp em bé bị down trong bào thai nhưng bác sĩ không tìm ra, khi em bé ra đời rồi mới biết, có gia đình đã đi kiện thưa bác sĩ về vụ sai sót này.Con người không toàn giác như Đức Phật nên vẫn vấp sai sót , bác Sĩ cũng chỉ là con người , và máy chẩn đoán cũng từcon người mà ra, thì vẫn sai sót làm tránh khỏi. Human error is common sense, lỗi của con người là lẽ thường thôi.

Bạch Sư Phụ, Đại Nguyện thứ 41 của Đức Phật A Di Đà là một phần thưởng cho chư hành giả một khi vãng sanh về cõi giới của Ngài, không cần phải lo sợ bị down hay bất cứ một thứ khuyết tật nào trên thân xác của con người, đây là phước đức sẵn có của hành giả.

Con rất thích Sư Phụ dẫn lời Đức Phật giải đáp thắc mắc Hoàng hậu Mallika (vợ của Vua Ba Tư Nặc) về nguyên nhân dẫn đến quả báo xấu và đẹp:


1. Do tính tình nóng nảy hay giận dữ, nhiều sân hận, dễ chuốc oán, sinh thù, mặt mày luôn cau có, bẳn gắt: Chính chúng là nhân, là duyên, tạo nên hạnh nghiệp, sinh ra quả báo có khuôn mặt xấu xí, ngũ quan xiêng lệch, da dẻ sần sùi, tỏa mùi hôi khó chịu, khó nhìn, khó ưa.

2. Do không có đức tin, không có giữ giới, không biết bố thí: Đó chính là nhân, là duyên, là hạnh nghiệp đưa đến quả báo có đời sống cơ cực, đói khổ, thiếu cơm, rách áo.

3. Do có tâm đố kỵ, ganh ghét, tị hiềm đối với những người có địa vị, danh vọng, tài sản: Đó chính là nhân, là duyên, là hạnh nghiệp đưa đến quả báo thấp hèn trong thân phận nô bộc, thị tỳ, nô lệ, dâm nữ… là thang bậc hạ liệt nhất trong xã hội.

4. Do ít có tâm sân hận, luôn dịu dàng, từ hòa, mát mẻ, thần sắc luôn phấn chấn, tươi vui: Đó chính là nhân, là duyên, là hạnh nghiệp đưa đến quả báo có sắc thân xinh đẹp, da dẻ mịn màng, tỏa mùi thơm, ngũ quan cân đối, tuyệt mỹ như là hiện thân tiên nữ trên đời này vậy.

5. Do có đức tin, có tâm tạo phước điền, biết bố thí vật thực, y phục đến cho sa-môn, bà-la-môn hay những kẻ cơ cực, đói nghèo: Đó chính là nhân, là duyên, là hạnh nghiệp tốt lành cho quả báo giàu sang, phú túc, thịnh mãn lộc tài.

6. Do không có tâm đố kỵ với những người nhiều lợi lộc; không ganh tỵ với những người được tán dương, khen ngợi; không tị hiềm đối với những người được sự cung kính, cúng dường; ngoài ra, họ còn làm được nhiều việc đúng đắn, lành tốt khác nữa: Đó chính là nhân, là duyên, là hạnh nghiệp đưa đến quả báo cao sang, đạt địa vị, danh vọng tối thắng mà thế gian ai cũng kính trọng, tôn quý!

(Sư phụ theo bản dịch của HT Minh Đức Triều Tâm Ảnh).


Bạch Sư Phụ, đề tài về tâm và tướng người nữ do từ nghiệp của tự mình tạo cho mình. Nên riêng con , con có thể suy ra con đã tạo nghiệp gì .

Bạch Sư Phụ, con nhớ Hoà thượng Tịnh Không có giảng là trước kia , HT tâm tướng không đẹp và thẩybói nói HT không sống lâu hơn 40 tuổi. Hoà Thượng liền đổi cách sống, HT phát tâm bố thí , tu tập và giảng pháp, cuối cùng đã chuyển nghiệp, HT sống thọ và thân tướng đẹp ra. Đúng là Tướng tùng tâm sanh. 


Con kính cám ơn Sư Phụ hôm nay ban cho bài pháp Lý thú đặc biệt về lục căn đầy đủ, chư căn vô khuyết hôm nay.

Nam Mô A Di Đà Phật

Đệ tử Quảng Tịnh Tâm (Montreal, Canada)



TT Thích Nguyên Tạng, Đại Nguyện Thứ 41, Chư Căn Vô Khuyết



Điều  mà bao người mẹ thường ao ước :

đứa con khi chào đời đầy đủ  các căn thân ! 

Đại nguyện thứ 41 : CHƯ CĂN VÔ KHUYẾT.

Chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu  Đức Phật  A Di Đà 

thì sẽ có các căn thân không  thiếu xấu  mà rất đầy đủ và sẽ tu tập cho đến khi thành Phật .



Kính dâng Thầy bài thơ trình pháp về đại nguyện thứ 41.
Kính đa tạ và tri ân Thầy về biện tài vô ngại trong những kiến thức khoa học
tuyệt vời khi nói về nhiễm thể Chromosomes được kết hợp với luật nhân quả và nghiệp báo .
Kính chúc sức khỏe Thầy , HH




Đại nguyện thứ 41 ....phần thưởng, 

Ban cho bậc cha mẹ thường ao ước ! 

Hạnh phúc biết bao, nhìn thấy con chào đời, 

Với thân căn đầy đủ ...quá tuyệt vời.

Chứng tỏ Phước, Vận đứa trẻ ngày sau sẽ tốt ! 



Từ bao thiên niên kỷ ... 

Chư Căn Vô Khuyết ...điều sợ hãi số một ! 

Đa tạ Giảng Sư, chuyên kể rất thực ...tại Melbourne, 

Y học thời đại chim sắt bó tay ....

trước chứng bịnh Down Syndrome, 

 Vì....yếu tố tạo bào thai còn do nghiệp quá khứ ! 



Hoàng hậu Mạt Lợi tham vấn 4 thân phận phụ nữ ***

Trong kinh A Hàm, được HT Giới Đức ghi lại ngày nay 

Thời Thế Tôn còn tại thế... nguyên nhân được rõ  bày 

Về nhân, quả, hạnh nghiệp ...để đến y, chánh báo. !!



Muốn vậy phải thực tập khắc ghi rốt ráo, 

Đừng bao giờ khởi niệm tật đố, ghét ganh .

Luôn nhẹ nhàng không gắt gỏng, giận, sân 

Lại có niềm tin, cúng dường, bố thí !!!



Kính tri ân Thầy..thêm vào lời khuyên chí lý

Chẳng phải  ...dành riêng phụ nữ phải lưu tâm 

Ba nghiệp độc: tham, sân, si  không loại trừ nam nhân, 

Vậy nên tu tập phương pháp " KHÔNG THEO VỌNG! " 



Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật .



Huệ Hương 



** 1- Vừa xấu mà nghèo  đói, 

2- Tuy xấu mà giàu có phú quý.

3- Tuy đẹp mỹ lệ  mà sống đời nghèo khó.

4- Vừa đẹp lại được mọi người tôn quý , giàu có, đức hạnh viên mãn 



 
Kính mời bấm vào đây để nghe bài giảng:
Thich Nguyen Tanghttps://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/08/2010(Xem: 52216)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 51632)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
27/08/2010(Xem: 9434)
Theo quan kiến của các luận sư Phật học, kinh điển của Phật giáo Đại thừa, thì phần văn lý hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu xa và linh hoạt như: các bộ Kinh Hoa Nghiêm, Duy Ma, Pháp Hoa… được xây dựng trên tinh thần phát triển nội dung nên giáo lý được phân định theo hai phần: Phương tiện môn và Chân thật môn. Về phương tiện môn, như có lần đức Phật ví pháp đó như nắm lá trong tay đã rời khỏi sự sống, còn sự hiểu biết và diệu dụng của Ngài như lá trong rừng luôn luôn xanh tươi, vận hành theo bốn mùa.
03/08/2010(Xem: 12380)
Mặc dù được xem như là một tôn giáo, thì Phật giáo vẫn là một trong các truyền thống tri kiến vĩ đại nhất của thế giới, được dựa trên cơ sở về trải nghiệm và lập luận hơn là việc tin tưởng không điều kiện vào thần quyền. Trong nhiều thế kỷ, đạo Phật đã đối thoại với các truyền thống khác ở châu Á như là Ấn giáo, Khổng giáo và Lão giáo, đó là các truyền thống vốn có các luận điểm riêng về thực tại. Nhưng đến kỷ nguyên mới này, thì sự thống trị lại thuộc về khoa học hiện đại vốn là một hệ thống truy cứu và tri kiến về thế giới tự nhiên một cách có lập luận, cho nên nếu muốn duy trì vị thế sẵn có như là một truyền thống thực nghiệm và tập luận truy cứu nghiêm cẩn, thì Phật giáo phải đối mặt với khoa học.
20/07/2010(Xem: 15124)
Với quyển Phật Pháp Cho Mọi Người, chúng tôi tương đối đã đạt được phần nào kết quả khi có thể mang những bài pháp thoại của nhiều tác giả đến với người đọc, nhất là những người sơ cơ như chúng tôi. Cũng đã ba năm kể từ quyển sách đó được phát hành, cũng đã có thêm nhiều bài pháp được chúng tôi chuyển ngữ. Theo sự gợi ý của một số thân hữu, lần này chúng tôi cũng xin tổng hợp các bài dịch rải rác đó đây để mang đến cho quý độc giả xa gần một luồng gió mát của chân Pháp. Mong là chúng tôi không phụ lòng mong đợi của quý độc giả. Dầu đã hết sức cố gắng, nhưng chúng tôi chắc rằng sẽ khó thể tránh những thiếu sót trong phần dịch thuật và biên tập, mong quý tôn sư, quý độc giả hoan hỷ chỉ bày. Lần nữa chúng tôi xin cảm tạ quý đạo hữu luôn chung tay với chúng tôi trong Phật sự này, để một số sách luôn đến tay quý độc giả dưới dạng ấn tống. Nguyện cho phước báu trong Pháp thí này được chia sẻ đến chư thiên, quý ân sư, quý ân nhân, đạo hữu, thân quyến và mọi chúng sanh. Na
18/07/2010(Xem: 12699)
Bất cứ người nào có nghiên cứu Phật học, có kiến thức về giáo lý đạo Phật như được ghi trong ba tạng kinh điển, đều thừa nhận đang có một khoảng cách lớn, phân biệt đạo Phật trong kinh điển (mà tôi tạm gọi là đạo Phật lý thuyết) với đạo Phật ở ngoài đời, trong cuộc sống thực tế. Đạo Phật lý thuyết là đạo Phật lý tưởng. Khoảng cách giữa lý tưởng và thực tế là chuyện tất nhiên và tất yếu. Bởi lẽ nếu không có khoảng cách đó giữa đạo Phật lý tưởng và đạo Phật thực tế thì mọi người chúng ta đều thành Phật cả rồi, và cõi đất này là cõi Phật rồi.
18/07/2010(Xem: 13067)
Chúng ta không ai không hấp thụ một nền giáo dục, hay ít ra tiếp nhận một hình thức giáo dục. Thế nhưng chắc chúng ta không khỏi lúng túng khi gặp câu hỏi bất ngờ như trên và khó trả lời ngay một cách vắn tắt trọn nghĩa và trôi chảy.
11/07/2010(Xem: 9933)
Có nhiều bài báo, nhiều công trình khảo cứu công phu viết về con số 0 cả từ thế kỷ trước sang đến thế kỷ này. Quả tình, đó là con số kì diệu. Có những câu hỏi tưởng chừng ngớ ngẩn, chẳng hạn, “số không có phải là con số?”, nhưng đó lại là câu hỏi gây nên những trả lời dị biệt, và ở mỗi khuynh hướng tiếp cận khác nhau, những câu trả lời khẳng hoặc phủ định đều có những hợp lý riêng của chúng. Thế nhưng, hầu như ngoài những nhà toán học thì chẳng mấy ai quan tâm đến con số không; có thể nói người ta đã không cần đến nó từ các nhu cầu bình nhật như cân đo đong đếm.
03/03/2010(Xem: 9819)
Cách đây hơn 25 thế kỷ, vào khoảng 560 năm trước "thời đại hoang mang" (560 BC): từ của LLoyd M. Graham trong cuốn Deceptions and Myths of the Bible), một nhân vật lịch sử với một tiểu sử rõ ràng đã sinh ra đời để mở đường cho chúng sinh thấy, giác ngộ và hội nhập cái biết và thấy của Phật (Khai, Thị, Ngộ, Nhập Phật tri kiến). Nhân vật lịch sử này chính là Thái Tử Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn ở miền Nam Népal ngày nay.
08/01/2009(Xem: 12584)
Trong tập sách này, tác giả Nguyễn Tường Bách trình bày lại các chặng đường quan trọng trong quá trình phát triển của ngành vật lý và triết học về khoa học tự nhiên trong hơn 25 thế kỷ qua. Tác giả chú trọng đặc biệt đến sự phát triển của hai lý thuyết vật lý quan trọng nhất trong thế kỷ 20, thuyết tương đối và thuyết lượng tử cũng như ý nghĩa triết học của chúng. Chính những lý thuyết này sẽ giúp bạn đọc hiểu được mối liên hệ với triết học và tư tưởng Phật giáo ở phần sau. Vẫn xoay quanh những câu hỏi muôn đời của loài người "vũ trụ là gì, từ đâu mà có?", "thực tại trước mắt chúng ta thực chất là gì?", "bản chất của thực tại vật chất là gì?"…, tác giả dẫn dắt chúng ta theo một hành trình từ vật lý đến triết học rồi gõ cửa và dừng chân ở tư tưởng Phật giáo để lý giải thế giới hiện tượng. "Cuộc sống là một dòng tâm thức bất tận, không đầu không đuôi… Hãy đơn giản hóa một đời thành một ngày. Đời này của chúng ta như là ngày hôm nay…"
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567