Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Niết Bàn Theo Quan Điểm Bồ Tát Long Thọ

25/09/201008:39(Xem: 4329)
Niết Bàn Theo Quan Điểm Bồ Tát Long Thọ

Từkhi đức Phật tuyên bố: “Sarvam Sùnyam” (Mọi vật đềukhông), từ sự gợi ý của ba pháp ấn: “Vô thường-Khổ-Vôngã” và sau đó các pháp được quan niệm như là “Mọivật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã,” thì vấnđề Niết-bàn (Nirvàịa), sau khi đức Thế tôn diệt độđã được các bộ phái nêu ra đặt vấn đề trở lại theoquan niện hiểu biết của họ về Niết-bàn, và cũng từ đómọi tranh luận về nó cũng như các phần giáo lý khác trởnên gay gắt.

Niết-bàn, vấn đề hiện hữu hay không hiệnhữu, có (bhàva) hay không (abhàva), một đề tài làm nảy sanhra mọi sự tranh luận, càng ngày càng gay gắt giữa Hữu bộhay còn gọi là Nhứt thiết hữu bộ (Sarvàsti-vàdin) và Kinhbộ còn gọi là Kinh lượng bộ (Sùtra-vàdin), giữa các nhàTiểu thừa và Đại thừa Không tông (Sùnyatà-vadin), và vấnđề này không còn dừng lại nơi đây mà còn tiến xa hơnnữa, trong việc hòa giải giữa hai quan điểm nói trên bằngcách gọp chúng lại rồi chấp nhận cả hai để có một cáiNiết-bàn hiện hữu theo sự hòa giải của họ, hay phủ nhậncả hai là chẳng phải có, chẳng phải không; đó là bốnthứ quan điểm của các bộ phái, nhưng theo ngài Nàgàrjuna(Long Thọ) thì đức Phật chưa từng nói ra một thứ Niết-bànnào như vậy, ngay cả khi Ngài còn tại thế, hay sau khi Ngàivào Niết-bàn, Ngài nói:

KhiNhư lai hiện hữu,
Chẳngnói có cùng không;
Cũngchẳng nói có-không,
Haychẳng có, chẳng không.

Và:

Sau khi Như Lai diệt,
Chẳngnói có cùng không;
Cũngchẳng nói có-không,
Haychẳng có, chẳng không.

Đối với Bồ tát Long Thọ, thì những quan niệm như vậycủa các bộ phái đối với Niết-bàn là hoàn toàn không chínhxác, và không hiểu được ý nghĩa “Sarvam Sùnyam” cho nêncó những quan niệm sai lầm như vậy về ý nghĩa Niết-bàn.Từ sự hiểu lầm này nên đã đi lệch con đường Trung đạocủa Ngài, và có những kiến thủ lệch lạc về các phápnói chung và Niết-bàn nói riêng. Vì con đường Trung đạocủa đức Phật không rơi vào Hữu hay Vô, không rơi vào vừaCó vừa Không, cũng không rơi vào chẳng phải có chẳng phảikhông, của những quan điểm thiên kiến tà chấp trói buộcnày, mà con đường Trung đạo là con đường giải thoát mọisự trói buộc khổ đau giữa hai bờ.

Đối với các nhà Tiểu thừa Hữu bộ, thứ nhất họ hiểu“Mọi vật đều Không” chỉ dành cho các pháp hữu vi màthôi còn các pháp vô vi như Niết-bàn, thì không bị lệ thuộcvào chúng, thứ hai “Mọi vật đều không” chỉ dành choNhơn không chứ không dành cho Pháp không, thứ ba “Mọi vậtkhông” thì không này là không trống rỗng, không có gì hết,không này là không đối lập lại với cái có. Do đó họmới có những cật vấn như vầy:

Nếu tất cả pháp không,
Thìkhông sanh, không diệt;
Làmsao có đoạn-diệt,
Đểgọi là Niết bàn ?

Ở trên là cách tiếp thu “Mọi vật đều không” và theođó các nhà Tiểu thừa đặt vấn đề là, nếu tất cả cácpháp đều không, không có gì hết, thì sẽ không có hiệntượng sanh diệt, khi đã không có hiện tượng sanh diệt thìmọi vấn đề được đặt ra theo sau đó, chúng không hiệnhữu. Vậy thì đoạn cái gì, diệt cái gì để có thể gọilà Niết bàn? Cho nên theo họ, tất cả các pháp không phảikhông, mà các pháp phải có thật. Vì các pháp chẳng phảikhông, nên nó đoạn trừ được tất cả mọi phiền não nghiệphoặc, tiêu diệt được năm ấm để đưa đến Niếtbàn. Để trả lời cho nạn vấn này, ngài Long Thọ cũng đứngtrên lập trường của họ, hỏi nghịch trở lại:

Nếu các pháp là có,
Thờikhông sanh không diệt;
Đoạngì, diệt chỗ nào,
Màgọi là Niết bàn ?

Vì các nhà Tiểu thừa không hiểu thấu được chỗ sâu xacủa pháp Không (Dharmasùnyatà), nên đã nhầm lẫn, cho rằngpháp Không là pháp trống rỗng, hư vô, không có gì hết; phápkhông này đối lại pháp có của họ, nên sanh ra kiến giảisai lầm về các pháp, và từ đó đưa ra nạn vấn như trên.Cũng đứng trên lập trường kiến giải sai lầm này, ngàiđặt ngược lại vấn đề rằng: Nếu các pháp chẳng phảikhông tức là có, và vì xưa nay chúng luôn luôn hiệnhữu, chúng luôn luôn là có nên chúng sẽ không có sanh, khôngcó diệt; vậy khi đã không sanh không diệt thì làm saochúng có chỗ để đoạn có chỗ để diệt mà gọi là Niếtbàn? Ở đây hai cửa hữu-vô (Bhàva-Abhàva) không phải làcửa đi đến Niết-bàn, mà Niết-bàn phải được gọi là:

Không được, cũng không đến,
Chẳngđoạn, cũng chẳng thường;
Chẳngsanh, cũng chẳng diệt,
Đógọi là Niết bàn.

Ở đây, mọi sự hiện hữu nô lệ, lệ thuộc, chấp thủthiên kiến nhị nguyên như : đắc-thất, đến-đi, đoạn-thường,sanh-diệt v.v... đều bị phủ định. Trong phủ định mớixem ra như là mang cả hai tính chất vừa đập phá vừa xâydựng. Nhưng ở đây, nếu được xác định như vậy,thì lập tức rơi vào đoạn-thường (Ucchada-Nitya) ngay. Do đó,mọi xác định đều cũng bị phủ nhận, để từ đó mởra một con đường rộng thênh thang không bị trói buộc, đólà con đường Trung đạo đi đến Niết-bàn. Nghĩa là sau khichúng ta thực hiện vô sự đối với các pháp, thì tự nólà con đường, tự nó là Niết-bàn không phải một cũng khôngphải khác. Ở đây, hành-quả không phải là chỗ để đạtđược, không phải là chỗ để đến, không phải là chỗđể đoạn trừ, chẳng có pháp để phân biệt; chẳngsanh chẳng diệt, cho nên Niết-bàn chẳng phải có, chẳng phảichẳng không, chẳng chấp thủ tất cả các pháp, bên trongtịch diệt gọi đó là Niết-bàn. Vì sao? Vì tất cả mọihiện tượng hiện hữu của vạn vật để mắt chúng ta nhậnthấy, luôn luôn ở trong trạng thái sanh diệt biến hoại,chỉ là tướng lão tử bị vô thường sanh diệt chi phốinên không phải là Niết-bàn. Nếu có một Niết-bàn nào đểmắt chúng ta nhận thấy là có thì Niết-bàn ấy cũng chỉlà tướng lão tử, mà tướng lão tử không phải là tướngNiết-bàn, cho nên Niết-bàn không gọi là có được,vì nó xa lìa tướng lão tử.

Hơn nữa, nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hayNiết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữuvi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng tháibiến diệt không thật có. Vì sao? Vì chúng hiện hữu cóđược là nhờ vào các duyên mà thành. Do đó, tất cả mọipháp đang hiện hữu giữa chúng ta không có bất cứ một phápnào gọi là hữu vi cả, cho dù là pháp thường mà giảgọi là vô vi dùng lý để tìm hiểu nó. Pháp vô thườngcòn không có, huống chi là pháp thường không thể thấy,không thể đạt được. Lại nữa, theo Ngài:

Nếu Niết bàn là có,
Saogọi không chấp thủ;
Vô-hữukhông từ chấp (thủ),
Màgọi là có pháp.

Nếu thật sự Niết bàn là thật có thì tại sao trong kinh,đức Phật lại bảo Niết bàn là không chấp thủ (vô thọ,hay Vô dư y: nirupadhizewa)? Đã là không chấp thủ thì cho dùpháp đó là pháp gì đi nữa cũng không thể hiện hữu ởđây được. Nếu có pháp nào để hiện hữu được thì ởđó không phải là chỗ vô thọ, vì theo kinh thì Niết-bànlà vô thọ, nên không có pháp không chấp thủ ở đây. VậyNiết-bàn chẳng phải có.

Nạn vấn :
Nếuhữu không phải là Niết-bàn, vậy thì vô là Niết-bàn?

Ngài bảo :

Hữu chẳng phải Niết-bàn,
Huốngchi đối với Vô;
Niết-bànkhông có Hữu,
Nơinào sẽ có Vô ?

Quá rõ ràng như bài kệ trên đã bảo Hữu-Vô không từ chấpthủ mà có. Vậy thì tại sao ở đây lại đặt vấn đềVô trở lại đối với Niết-bàn được ? Vì sao ? Vì nhờvào hữu mà có vô. Nếu không có hữu thì làm sao có vô được.Nếu nói trước có nay không, thì vật này là vô. Nhưng Niết-bànchẳng phải vậy, vì không có pháp có nào lại là không được,cho nên vô cũng không thể tạo nên Niết-bàn được.

Lại nữa, thử đặt vô là Niết-bàn đi. Nhưng ở đây, chúngta không giải quyết được vấn đề không chấp thủ là Niết-bànnhư đức Phật đã dạy trong kinh. Nếu vô là Niết-bàn thìđức Phật đã không nói không chấp thủ là Niết-bàn nhưkinh đã dạy. Vì sao ? Vì không có pháp không chấp thủ nàogọi là pháp vô cả, cho nên Niết-bàn không thể gọi là vôđược.

Hơn nữa,

Như trong kinh Phật bảo:
Đoạncó, đoạn chẳng có;
Biếtđó là Niết-bàn,
Chẳngcó cũng chẳng không.

Chính đức Phật đã dạy nếu đoạn trừ cả hai : Cóvà chẳng có này thì Niết-bàn sẽ hiện hữu. Vì sao ? VìCó là chỉ cho tam hữu (tam giới) và chẳng có chỉ cho tamhữu đã được đoạn diệt. Nếu đoạn trừ cả hai chướngngại hữu-vô này, thì biết rằng Niết-bàn chẳng phải có(phi hữu) cũng chẳng phải không (phi vô), đó mới gọi làNiết-bàn.

Nạn vấn :

Nếu hữu hay vô không phải Niết bàn thì bây giờ hợp cảhữu và vô lại, có phải là Niết bàn không ? Ngài bảo :

Đối hữu-vô, nếu bảo:
Hợplại là Niết-bàn;
Hữu-vôlà giải thoát,
Thờiđiều này chẳng đúng.

Ở phần trên hữu-vô đã bị phủ định, nhưng người nạnvấn vẫn đem chúng đặt vấn đề trở lại. Ở đây, lạinảy sanh một phi lý khác nữa, đó là việc hợp nhất giữahữu-vô lại để có một cái Niết-bàn theo quan điểm củahọ. Nhưng theo ngài, nếu hợp cả hữu và vô lại là Niết-bàn,tức là hợp cả hữu và vô lại là giải thoát, điều nàychỉ thông cho Niết-bàn và giải thoát thôi. Còn ngay chínhnó, hữu và vô, trong một vế mà tự mâu thuẫn nhau với chínhmình, vậy thì làm sao thông với vế thứ hai được. Vì sao? Vì hữu và vô chúng tương phản nhau, làm sao hiện diệncùng lúc cùng một chỗ được. Do đó, hợp cả hai hữu vàvô lại là Niết-bàn thì không đúng. Lại nữa :

Đối hữu-vô, nếu bảo:
Hợplại là Niết-bàn;
Niết-bànlà chỗ chấp,
Cảhai từ chấp sanh.

Ở trên, tự chúng đã không thông rồi. Nếu ở đây mà hợpchúng lại là Niết-bàn có thể chấp nhận đi, với điềukiện tự chúng không mâu thuẫn nhau; nhưng ở đây tựthân Niết-bàn không phải là chỗ chấp thủ, trong khi đóhữu-vô từ chỗ chấp thủ sanh ra, cùng nhờ vào nhau mà hiệnhữu. Vậy thì cả hai vế mâu thuẫn và không thông nhau được,do đó chúng không phải là Niết-bàn.

Lại nữa, Niết bàn là Vô vi, nó vượt lên trên hữu-vôcủa hữu vi. Trong khi hữu-vô hợp lại mà thành thì khôngthoát khỏi hữu vi, nghĩa là chúng thuộc pháp hữu vi. Nhưngpháp hữu vi là pháp sanh diệt như đức Phật đã dạy, trongkhi pháp vô vi là pháp không sinh diệt. Vậy thì làm sao bảohữu-vô hợp lại thành là Niết-bàn ?

Hay,

Cộng hai việc hữu-vô
Làmsao là Niết-bàn ?
Haiviệc không cùng chỗ
Nhưsáng tối không hợp.

Ở trên, hợp hai việc có-không đã không thành là một vấnđề. Ở đây, lại là một vấn đề khác nữa trong việccộng hai khái niệm này lại để có Niết-bàn hiện hữu,thì làm sao chúng ta có thể làm được. Vì sao? Vì có-khôngchúng tự tương phản mâu thuẫn nhau nên không thể cùng hiệnhữu một nơi được. Như ánh sáng và bóng tối, không thểnào cùng hiện hữu cùng một lúc được. Khi nàoCó hiện hữu thì Không sẽ không hiện hữu, ngược lại khinào Không hiện hữu thì có sẽ không hiện hữu. Vậy thìlàm sao có-không cùng hợp nhau lại mà gọi là Niết-bàn ?

Lại nạn vấn :

Nếu Có-Không cùng hợp nhau lại không là Niết-bàn, thì bâygiờ chẳng phải có chẳng phải không là Niết-bàn đượckhông?

Ngài bảo :

Nếu chẳng có chẳng không,

Gọiđó là Niết-bàn;

Chẳngcó chẳng không này,

Làmsao mà phân biệt ?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2023(Xem: 8159)
Phương pháp phát triển cá nhân mà nhà sư Sangharakshita nói đến trong bài này là phép thiền định của Phật giáo, một phép luyện tập nhằm biến cải một con người bình dị trở thành một con người đạo đức, sáng suốt và cao quý hơn, và ở một cấp bậc sâu xa hơn nữa còn có thể giúp con người đạo đức, sáng suốt và cao quý ấy thoát ra khỏi thế giới hiện tượng luôn trong tình trạng chuyển động và khổ đau này.
23/12/2022(Xem: 22346)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
14/12/2022(Xem: 3062)
Đạo đức và Luân lý chẳng những là nền tảng của mọi tôn giáo, mà còn là nền tảng của mọi xã hội loài người. Một xã hội sẽ không hoạt động hoặc phát triển nếu không có Đạo đức và Luân lý; nó sẽ không chịu nổi sự hỗn loạn và bạo lực. Đạo đức và Luân lý cũng đóng vai trò là hệ thống giá trị mà từ đó luật pháp và công lý được hình thành, cùng với các định nghĩa của chúng ta về đúng và sai. Một hệ thống Đạo đức và Luân lý không chỉ tạo ra hòa bình và trật tự trên thế giới này, nó còn cung cấp một mục đích trong cuộc sống. Sống có Đạo đức và Luân lý cho chúng ta cảm giác thành một ơn gọi cao hơn có thể mang bản chất tâm linh, cho phép chúng ta trải nghiệm sự siêu việt vượt qua những cám dỗ vật chất trần tục.
02/11/2022(Xem: 22910)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 19676)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 15903)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 10023)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 11581)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 10379)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
17/11/2021(Xem: 25998)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]