Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Niết Bàn Theo Quan Điểm Bồ Tát Long Thọ

25/09/201008:39(Xem: 3922)
Niết Bàn Theo Quan Điểm Bồ Tát Long Thọ

Từkhi đức Phật tuyên bố: “Sarvam Sùnyam” (Mọi vật đềukhông), từ sự gợi ý của ba pháp ấn: “Vô thường-Khổ-Vôngã” và sau đó các pháp được quan niệm như là “Mọivật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã,” thì vấnđề Niết-bàn (Nirvàịa), sau khi đức Thế tôn diệt độđã được các bộ phái nêu ra đặt vấn đề trở lại theoquan niện hiểu biết của họ về Niết-bàn, và cũng từ đómọi tranh luận về nó cũng như các phần giáo lý khác trởnên gay gắt.

Niết-bàn, vấn đề hiện hữu hay không hiệnhữu, có (bhàva) hay không (abhàva), một đề tài làm nảy sanhra mọi sự tranh luận, càng ngày càng gay gắt giữa Hữu bộhay còn gọi là Nhứt thiết hữu bộ (Sarvàsti-vàdin) và Kinhbộ còn gọi là Kinh lượng bộ (Sùtra-vàdin), giữa các nhàTiểu thừa và Đại thừa Không tông (Sùnyatà-vadin), và vấnđề này không còn dừng lại nơi đây mà còn tiến xa hơnnữa, trong việc hòa giải giữa hai quan điểm nói trên bằngcách gọp chúng lại rồi chấp nhận cả hai để có một cáiNiết-bàn hiện hữu theo sự hòa giải của họ, hay phủ nhậncả hai là chẳng phải có, chẳng phải không; đó là bốnthứ quan điểm của các bộ phái, nhưng theo ngài Nàgàrjuna(Long Thọ) thì đức Phật chưa từng nói ra một thứ Niết-bànnào như vậy, ngay cả khi Ngài còn tại thế, hay sau khi Ngàivào Niết-bàn, Ngài nói:

KhiNhư lai hiện hữu,
Chẳngnói có cùng không;
Cũngchẳng nói có-không,
Haychẳng có, chẳng không.

Và:

Sau khi Như Lai diệt,
Chẳngnói có cùng không;
Cũngchẳng nói có-không,
Haychẳng có, chẳng không.

Đối với Bồ tát Long Thọ, thì những quan niệm như vậycủa các bộ phái đối với Niết-bàn là hoàn toàn không chínhxác, và không hiểu được ý nghĩa “Sarvam Sùnyam” cho nêncó những quan niệm sai lầm như vậy về ý nghĩa Niết-bàn.Từ sự hiểu lầm này nên đã đi lệch con đường Trung đạocủa Ngài, và có những kiến thủ lệch lạc về các phápnói chung và Niết-bàn nói riêng. Vì con đường Trung đạocủa đức Phật không rơi vào Hữu hay Vô, không rơi vào vừaCó vừa Không, cũng không rơi vào chẳng phải có chẳng phảikhông, của những quan điểm thiên kiến tà chấp trói buộcnày, mà con đường Trung đạo là con đường giải thoát mọisự trói buộc khổ đau giữa hai bờ.

Đối với các nhà Tiểu thừa Hữu bộ, thứ nhất họ hiểu“Mọi vật đều Không” chỉ dành cho các pháp hữu vi màthôi còn các pháp vô vi như Niết-bàn, thì không bị lệ thuộcvào chúng, thứ hai “Mọi vật đều không” chỉ dành choNhơn không chứ không dành cho Pháp không, thứ ba “Mọi vậtkhông” thì không này là không trống rỗng, không có gì hết,không này là không đối lập lại với cái có. Do đó họmới có những cật vấn như vầy:

Nếu tất cả pháp không,
Thìkhông sanh, không diệt;
Làmsao có đoạn-diệt,
Đểgọi là Niết bàn ?

Ở trên là cách tiếp thu “Mọi vật đều không” và theođó các nhà Tiểu thừa đặt vấn đề là, nếu tất cả cácpháp đều không, không có gì hết, thì sẽ không có hiệntượng sanh diệt, khi đã không có hiện tượng sanh diệt thìmọi vấn đề được đặt ra theo sau đó, chúng không hiệnhữu. Vậy thì đoạn cái gì, diệt cái gì để có thể gọilà Niết bàn? Cho nên theo họ, tất cả các pháp không phảikhông, mà các pháp phải có thật. Vì các pháp chẳng phảikhông, nên nó đoạn trừ được tất cả mọi phiền não nghiệphoặc, tiêu diệt được năm ấm để đưa đến Niếtbàn. Để trả lời cho nạn vấn này, ngài Long Thọ cũng đứngtrên lập trường của họ, hỏi nghịch trở lại:

Nếu các pháp là có,
Thờikhông sanh không diệt;
Đoạngì, diệt chỗ nào,
Màgọi là Niết bàn ?

Vì các nhà Tiểu thừa không hiểu thấu được chỗ sâu xacủa pháp Không (Dharmasùnyatà), nên đã nhầm lẫn, cho rằngpháp Không là pháp trống rỗng, hư vô, không có gì hết; phápkhông này đối lại pháp có của họ, nên sanh ra kiến giảisai lầm về các pháp, và từ đó đưa ra nạn vấn như trên.Cũng đứng trên lập trường kiến giải sai lầm này, ngàiđặt ngược lại vấn đề rằng: Nếu các pháp chẳng phảikhông tức là có, và vì xưa nay chúng luôn luôn hiệnhữu, chúng luôn luôn là có nên chúng sẽ không có sanh, khôngcó diệt; vậy khi đã không sanh không diệt thì làm saochúng có chỗ để đoạn có chỗ để diệt mà gọi là Niếtbàn? Ở đây hai cửa hữu-vô (Bhàva-Abhàva) không phải làcửa đi đến Niết-bàn, mà Niết-bàn phải được gọi là:

Không được, cũng không đến,
Chẳngđoạn, cũng chẳng thường;
Chẳngsanh, cũng chẳng diệt,
Đógọi là Niết bàn.

Ở đây, mọi sự hiện hữu nô lệ, lệ thuộc, chấp thủthiên kiến nhị nguyên như : đắc-thất, đến-đi, đoạn-thường,sanh-diệt v.v... đều bị phủ định. Trong phủ định mớixem ra như là mang cả hai tính chất vừa đập phá vừa xâydựng. Nhưng ở đây, nếu được xác định như vậy,thì lập tức rơi vào đoạn-thường (Ucchada-Nitya) ngay. Do đó,mọi xác định đều cũng bị phủ nhận, để từ đó mởra một con đường rộng thênh thang không bị trói buộc, đólà con đường Trung đạo đi đến Niết-bàn. Nghĩa là sau khichúng ta thực hiện vô sự đối với các pháp, thì tự nólà con đường, tự nó là Niết-bàn không phải một cũng khôngphải khác. Ở đây, hành-quả không phải là chỗ để đạtđược, không phải là chỗ để đến, không phải là chỗđể đoạn trừ, chẳng có pháp để phân biệt; chẳngsanh chẳng diệt, cho nên Niết-bàn chẳng phải có, chẳng phảichẳng không, chẳng chấp thủ tất cả các pháp, bên trongtịch diệt gọi đó là Niết-bàn. Vì sao? Vì tất cả mọihiện tượng hiện hữu của vạn vật để mắt chúng ta nhậnthấy, luôn luôn ở trong trạng thái sanh diệt biến hoại,chỉ là tướng lão tử bị vô thường sanh diệt chi phốinên không phải là Niết-bàn. Nếu có một Niết-bàn nào đểmắt chúng ta nhận thấy là có thì Niết-bàn ấy cũng chỉlà tướng lão tử, mà tướng lão tử không phải là tướngNiết-bàn, cho nên Niết-bàn không gọi là có được,vì nó xa lìa tướng lão tử.

Hơn nữa, nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hayNiết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữuvi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng tháibiến diệt không thật có. Vì sao? Vì chúng hiện hữu cóđược là nhờ vào các duyên mà thành. Do đó, tất cả mọipháp đang hiện hữu giữa chúng ta không có bất cứ một phápnào gọi là hữu vi cả, cho dù là pháp thường mà giảgọi là vô vi dùng lý để tìm hiểu nó. Pháp vô thườngcòn không có, huống chi là pháp thường không thể thấy,không thể đạt được. Lại nữa, theo Ngài:

Nếu Niết bàn là có,
Saogọi không chấp thủ;
Vô-hữukhông từ chấp (thủ),
Màgọi là có pháp.

Nếu thật sự Niết bàn là thật có thì tại sao trong kinh,đức Phật lại bảo Niết bàn là không chấp thủ (vô thọ,hay Vô dư y: nirupadhizewa)? Đã là không chấp thủ thì cho dùpháp đó là pháp gì đi nữa cũng không thể hiện hữu ởđây được. Nếu có pháp nào để hiện hữu được thì ởđó không phải là chỗ vô thọ, vì theo kinh thì Niết-bànlà vô thọ, nên không có pháp không chấp thủ ở đây. VậyNiết-bàn chẳng phải có.

Nạn vấn :
Nếuhữu không phải là Niết-bàn, vậy thì vô là Niết-bàn?

Ngài bảo :

Hữu chẳng phải Niết-bàn,
Huốngchi đối với Vô;
Niết-bànkhông có Hữu,
Nơinào sẽ có Vô ?

Quá rõ ràng như bài kệ trên đã bảo Hữu-Vô không từ chấpthủ mà có. Vậy thì tại sao ở đây lại đặt vấn đềVô trở lại đối với Niết-bàn được ? Vì sao ? Vì nhờvào hữu mà có vô. Nếu không có hữu thì làm sao có vô được.Nếu nói trước có nay không, thì vật này là vô. Nhưng Niết-bànchẳng phải vậy, vì không có pháp có nào lại là không được,cho nên vô cũng không thể tạo nên Niết-bàn được.

Lại nữa, thử đặt vô là Niết-bàn đi. Nhưng ở đây, chúngta không giải quyết được vấn đề không chấp thủ là Niết-bànnhư đức Phật đã dạy trong kinh. Nếu vô là Niết-bàn thìđức Phật đã không nói không chấp thủ là Niết-bàn nhưkinh đã dạy. Vì sao ? Vì không có pháp không chấp thủ nàogọi là pháp vô cả, cho nên Niết-bàn không thể gọi là vôđược.

Hơn nữa,

Như trong kinh Phật bảo:
Đoạncó, đoạn chẳng có;
Biếtđó là Niết-bàn,
Chẳngcó cũng chẳng không.

Chính đức Phật đã dạy nếu đoạn trừ cả hai : Cóvà chẳng có này thì Niết-bàn sẽ hiện hữu. Vì sao ? VìCó là chỉ cho tam hữu (tam giới) và chẳng có chỉ cho tamhữu đã được đoạn diệt. Nếu đoạn trừ cả hai chướngngại hữu-vô này, thì biết rằng Niết-bàn chẳng phải có(phi hữu) cũng chẳng phải không (phi vô), đó mới gọi làNiết-bàn.

Nạn vấn :

Nếu hữu hay vô không phải Niết bàn thì bây giờ hợp cảhữu và vô lại, có phải là Niết bàn không ? Ngài bảo :

Đối hữu-vô, nếu bảo:
Hợplại là Niết-bàn;
Hữu-vôlà giải thoát,
Thờiđiều này chẳng đúng.

Ở phần trên hữu-vô đã bị phủ định, nhưng người nạnvấn vẫn đem chúng đặt vấn đề trở lại. Ở đây, lạinảy sanh một phi lý khác nữa, đó là việc hợp nhất giữahữu-vô lại để có một cái Niết-bàn theo quan điểm củahọ. Nhưng theo ngài, nếu hợp cả hữu và vô lại là Niết-bàn,tức là hợp cả hữu và vô lại là giải thoát, điều nàychỉ thông cho Niết-bàn và giải thoát thôi. Còn ngay chínhnó, hữu và vô, trong một vế mà tự mâu thuẫn nhau với chínhmình, vậy thì làm sao thông với vế thứ hai được. Vì sao? Vì hữu và vô chúng tương phản nhau, làm sao hiện diệncùng lúc cùng một chỗ được. Do đó, hợp cả hai hữu vàvô lại là Niết-bàn thì không đúng. Lại nữa :

Đối hữu-vô, nếu bảo:
Hợplại là Niết-bàn;
Niết-bànlà chỗ chấp,
Cảhai từ chấp sanh.

Ở trên, tự chúng đã không thông rồi. Nếu ở đây mà hợpchúng lại là Niết-bàn có thể chấp nhận đi, với điềukiện tự chúng không mâu thuẫn nhau; nhưng ở đây tựthân Niết-bàn không phải là chỗ chấp thủ, trong khi đóhữu-vô từ chỗ chấp thủ sanh ra, cùng nhờ vào nhau mà hiệnhữu. Vậy thì cả hai vế mâu thuẫn và không thông nhau được,do đó chúng không phải là Niết-bàn.

Lại nữa, Niết bàn là Vô vi, nó vượt lên trên hữu-vôcủa hữu vi. Trong khi hữu-vô hợp lại mà thành thì khôngthoát khỏi hữu vi, nghĩa là chúng thuộc pháp hữu vi. Nhưngpháp hữu vi là pháp sanh diệt như đức Phật đã dạy, trongkhi pháp vô vi là pháp không sinh diệt. Vậy thì làm sao bảohữu-vô hợp lại thành là Niết-bàn ?

Hay,

Cộng hai việc hữu-vô
Làmsao là Niết-bàn ?
Haiviệc không cùng chỗ
Nhưsáng tối không hợp.

Ở trên, hợp hai việc có-không đã không thành là một vấnđề. Ở đây, lại là một vấn đề khác nữa trong việccộng hai khái niệm này lại để có Niết-bàn hiện hữu,thì làm sao chúng ta có thể làm được. Vì sao? Vì có-khôngchúng tự tương phản mâu thuẫn nhau nên không thể cùng hiệnhữu một nơi được. Như ánh sáng và bóng tối, không thểnào cùng hiện hữu cùng một lúc được. Khi nàoCó hiện hữu thì Không sẽ không hiện hữu, ngược lại khinào Không hiện hữu thì có sẽ không hiện hữu. Vậy thìlàm sao có-không cùng hợp nhau lại mà gọi là Niết-bàn ?

Lại nạn vấn :

Nếu Có-Không cùng hợp nhau lại không là Niết-bàn, thì bâygiờ chẳng phải có chẳng phải không là Niết-bàn đượckhông?

Ngài bảo :

Nếu chẳng có chẳng không,

Gọiđó là Niết-bàn;

Chẳngcó chẳng không này,

Làmsao mà phân biệt ?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/07/2021(Xem: 11810)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16556)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12523)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7786)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 19980)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11639)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9109)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
23/03/2020(Xem: 10292)
Có một con sư tử mẹ đang đi kiếm ăn. Nó sắp làm mẹ. Buổi sáng đó nó chạy đuổi theo một chú nai. Chú nai con chạy thật nhanh dù sức yếu. Sư tử mẹ dầu mạnh, nhưng đang mang thai, nên khá chậm chạp. Sư tử mẹ chạy sau chú nai con rất lâu, khoảng 15 phút, mà vẫn chưa bắt kịp. Sau đó chúng tới một rãnh sâu. Chú nai lẹ làng nhảy qua rãnh, sang bờ bên kia. Sư tử mẹ rất bực tức vì không bắt kịp con mồi, và vì nó đang cần thức ăn cho cả nó và đứa con trong bụng. Vì thế, nó cố hết sức để nhảy qua cái rãnh sâu. Nhưng tai họa đã xảy ra, sư tử mẹ đã sẩy đứa con khi cố nhảy qua rãnh. Dầu qua được bờ bên kia, nhưng sư tử mẹ biết rằng mình đã đánh mất đứa con mà nó đã chờ đợi từ bao lâu, đã yêu thương hết lòng, chỉ vì một phút vô tâm của mình. Nó đã quên rằng nó đang mang một bào thai trong bụng, và nó cần phải hết sức cẩn trọng. Chỉ một phút lơ đễnh, nó đã không giữ được đứa con của mình.
01/03/2020(Xem: 11832)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
04/01/2020(Xem: 7187)
Bài viết nhan đề “Góp Ý Với Sư Cô Thích Nữ Thanh Tâm” của Cư sĩ Thiện Quả Đào Văn Bình trên mạng Thư Viện Hoa Sen hiển nhiên là nhiều thiện ý, đã đưa ra các nhận định mang tính xây dựng. Từ đó, tất nhiên có phản ứng, và những ý kiến trái nghịch được đưa ra. Trong mọi trường hợp, tất cả những dị kiến nên xem như chuyện bình thường.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567