Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hai Cánh Bay Giải Thoát

16/03/201706:42(Xem: 7742)
Hai Cánh Bay Giải Thoát


hoa_sen (42)

HAI CÁNH BAY GIẢI THOÁT

Đức Hạnh

 

 Trong nghi thức Cầu Siêu của Phật Giáo Việt Nam, ở phần Quy Y Linh, có ba lời pháp ngữ: “Hương linh quy y PHẬT, đấng PHƯỚC TRÍ VẸN TOÀN – Hương linh quy y PHÁP, đạo THOÁT LY THAM DỤC – Hương linh quy y TĂNG, bậc TU HÀNH CAO TỘT” (chơn tâm – vô ngã).

      Ba lời pháp ngữ trên chính là ba điều kiện, ba phương tiện siêu xuất, có năng lực đưa hương linh (thân trung ấm) được siêu lên các cõi thiện tùy theo mức độ thiện nghiệp nhiều, ít của hương linh vốn được có khi làm người, chết mang theo. Do đã quy Phật, không bị đọa vào địa ngục. Hương linh quy Pháp không đọa ngạ quỷ. Hương linh quy Tăng không đọa bàng sanh (đường ác :địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh) .

      Ba lời pháp ngữ trên cũng là lời kêu gọi hương linh đã quy y hay chưa quy y Tam Bảo lúc còn sống thì hãy phát nguyện quay về Tam Bảo ngay giờ phút hiện tại cầu siêu ấy, nghe Kinh và khởi tâm lễ bái. Nhờ thần lực và hào quang chư Phật, Bồ Tát soi sáng, che chở cho khỏi bị lạc vào sức níu kéo của ba đường ác.

      Ba lời pháp ngữ trên, cũng chính là lời nhắc nhở người còn sống, là thân bằng quyến thuộc, họ hàng nội ngọai, thân hữu của người chết đến dự lễ cầu siêu, nên hiểu ý nghĩa của chữ Siêu là cái tâm thật nhẹ nhàng, bay bổng lên cao như chiếc bong bóng có chứa chất khinh khí; tức là cái tâm trống rỗng, không còn tham, sân, si, chấp ngã, hết những tính tham lam danh lợi, phiền não ..., là chất SIÊU chứ không phải, hễ có cầu siêu là được siêu. Cho nên lễ cầu siêu được xây dựng trên ba lãnh vực: Hộ niệm lần cuối cho vong linh mở tâm tin Tam Bảo. Hai là, sự đền ân, đáp nghĩa của người sống đối với người chết. Ba là, nhắn nhủ người sống hãy nhớ lại lời Phật nói: SANH , GIÀ , BỊNH, CHẾT là khổ.

      Muốn thoát khỏi cái KHỔ Ở CÕI CHẾT, phải có chất SIÊU trong tâm lúc còn sống. Chính đó là tích lũy nghiệp thiện nhỏ hay lớn đang có trong bản thân ngũ uẩn tứ đại máu thịt, giống như hạt ngọc MANI, Kim cương bị gói trong miếng vải dơ. Bỏ miếng vải dơ đi, còn lại hạt ngọc MANI, Kim cương, tức là cái chơn tâm vô ngã, trong sáng... Tâm trong sáng vốn có ấy, cũng chính là cái CẬN TỬ NGHIỆP tốt nhất trong giờ phút lâm chung của người Phật tử biết tu tập Phật pháp về PHƯỚC và TRÍ. Hai phương tiện này có cùng độ SIÊU vẹn toàn cân bằng ngang nhau, dù nhỏ như hai cánh của những con phù du, chim sâu, chuồn chuồn... hay to lớn như hai cánh chim đại bàng, chim hạc, diều hâu, máy bay phản lực Boeing 787, hai chân con người, v.v... Tất cả phải được khỏe và mạnh ngang nhau, mới có thể bay cao, bay xa, chạy nhảy, đi đứng vững vàng. Nếu một trong hai cánh, chân trái, phải bị yếu, đau, tàn tật, thì nhất định không thể bay, không thể đi thẳng, bị đi xiêng, đi xẹo, đi cà lếch. Với con người, nếu có chân giả hay nạng. Nhưng sự đi đứng khập khễnh, không chính xác.

      Cũng như vậy, con đường giải thoát của người Phật tử được có, là phải hội đủ hai phương tiện PHƯỚC và TRÍ, dù cấp độ thấp để vãng sanh hạ phẩm hạ sanh, cũng phải vẹn toàn hai cánh bay ngang nhau. Ngược lại, không vẹn toàn, khó có thể được siêu! Giống như người bị mất một chân, có bao giờ leo được lên cây hay chạy nhảy!

      Qua đoạn luận trên, cho ta thấy hai cánh bay PHƯỚC TRÍ là điều kiện tiên quyết, rất quan trọng đối với những ai đi tìm cầu cho mình con đường giải thoát trong đạo Phật bằng phương tiện Phật pháp, cần phải tự kiến tạo qua quá trình học và tu tập Phật Pháp về PHƯỚC và TRÍ một cách song hành, không thể bị khuyết một trong hai. Nếu bị khuyết một trong hai, tức thì những tính nhân ngã, ngã sở, ngã kiến, v.v... trỗi dậy. Điều đó được thấy ở một số người giàu có thích làm việc phước thiện, Phật sự, bố thí, cúng dường, không thích tu tập Phật Pháp. Hay là những người khoa bảng, được gọi là trí thức thế gian, chỉ thích làm những công việc văn hóa Phật giáo, chứ không thích tu tập Phật Pháp. Cả hai công việc ấy được gọi là phước thiện. Dĩ nhiên, sẽ được có quả phước báo, do hành thiện bằng cái tâm khởi lên nhiều ý niệm về ngã, do đó không gọi là phước đức, công đức. Khi nào được gọi là công đức, là do có tâm vô ngã trong lúc hành động từ thiện, bố thí, cúng dường, phụng sự Đạo pháp trong mọi lãnh vực. Thì phước đó, là phước vô lậu, tức là vượt thoát mọi ý niệm về ngã, gọi là bố thí Ba la mật (qua bờ giác). Đúng như lời Phật đã dạy cho bốn chúng đệ tử của Phật: “Làm công việc từ thiện dù nhỏ hay lớn, đều phải được xây dựng trên tinh thần vô ngã.” Điều này được chứng minh qua câu truyện vua Lương Võ Đế đến thăm  Bồ Đề Đạt Ma. Sau lời thăm viếng và đãnh lễ, Vua Lương Võ Đế trình bày về quá trình phụng sự đạo pháp, nào là;  xây chùa, đúc tượng, in kinh sách, cúng dường vật chất để độ cho Tăng chúng tại các chùa cho Ngài Bồ Đề Đạt Ma được biết.

     Nghe xong lời nhà vua, Bồ Đề  Đạt Ma im lặng trong giây lát. Đoạn, nhìn  vua Lương Võ Đế bằng đôi mắt tròn xoe, rồi ra lời một cách dõng dạc : “KHÔNG CÓ CÔNG ĐỨC GÌ HẾT”. Sở dĩ  Đức Bồ Đề Đạt Ma nói lời phủ nhận công việc phụng sự đạo pháp của vua Lương Võ Đế,  không có công đức như vậy, là vì Ngài đã nhìn thấy rõ tâm vua Lương Võ Đế cầu danh, cầu phước báo hữu lậu, chứ không cầu con đường giải thoát bằng công đức vô lậu.

      Với người Phật tử Việt Nam, ắt hẳn ai cũng biết trong Đạo Phật có con đường giải thoát là cái tâm vô ngã đúng như lời Phật đã nói lời khẳng định rõ ràng như trên.

      Giáo pháp để cho người Phật tử khắp nơi trên thế giới tu tập kiến tạo hai cánh bay PHƯỚC và  TRÍ vượt thoát sinh tử, được Đức Phật thuyết giáo qua 5 thời suốt 45 năm, cách nay 26 thế kỷ. Tất cả đều chứa đựng nguyên lý giải thoát trong nhiều thứ Kinh của Phật. Kinh nào cũng khế lý, cũng phù hợp với căn cơ chúng sanh (bốn chúng đệ tử Phật) trên bước đường tu tập để phá trừ bản ngã thành VÔ NGÃ, là nền tảng kiến tạo hai cánh tay PHƯỚC và TRÍ.

      Nói khác hơn, toàn bộ Kinh điển mà Phật đã  thuyết cho những hành giả đi tìm con đường giải thoát ở năm Thừa: Nhân – Thiên – Thanh Văn – Duyên Giác – Bồ Tát và Nhứt Thừa (Phật Thừa) trong 5 thời, suốt 45 năm. Thừa nào (cỗ xe) Phật cũng đề cập đến lý giải thoát trong đó và hướng dẫn phương pháp tu tập để phá trừ mọi ý niệm về Ngã thành Vô ngã, là chất liệu kiến tạo hai cánh bay PHƯỚC và TRÍ không gì khác hơn, vì đó là phạm trù tư tưởng Phật giáo. Cho nên tất cả hành giả đi tìm con đường giải thoát trong đạo Phật, từ Nhân thừa trở lên đến Phật Thừa, ai cũng phải có hai cánh bay PHƯỚC TRÍ từ thấp đến cao, chứ đừng nghĩ rằng chỉ có các hành giả Bồ Tát thừa mới có thể tiến tới Phật thừa thành Phật. Muốn có Phước Trí Phật Thừa, hành giả phải kiến tạo Phước Trí của Nhân Thừa, Thiên Thừa... làm nền tảng, như đến cái đích của con đường dài trăm cây số, phải có bước khởi hành đầu tiên.

      Bước đầu tiên được xuất phát từ cái tâm mong muốn, có tính cách quyết liệt không chùng bước, dù là cái bước bằng đôi chân trên đường đất đá, nhựa (road – vật thể) để tiến tới mục tiêu nhắm đến ở cuối đường thiên lý, hay là bằng cái tâm sở nguyện trên đường (path – tinh thần) cứu khổ chúng sanh ngay thực tại hoặc nghe thấy ở đâu đó. Cả hai, đều được xuất phát từ cái tâm không do dự, quyết chí tiến đến, là sức mạnh làm nhân, để sau đó được kết quả đến đích, cứu khổ hiện thực.

      Hai cái quả đến đích và cứu khổ đều được thấy. Cái quả đến đích ở cuối đường thiên lý dễ thấy hơn, vì một khi đã đi là có đến.

      Còn cái quả cứu khổ chúng sanh được cả hai. Chúng sanh được an vui, hạnh phúc do được thoát khỏi cảnh khổ và người hành động cứu khổ thì được phước theo quy luật nhân quả.

      Phước, dù là vô tướng, nhưng vẫn được thấy rõ sau khi hành động thiện pháp. Điều đó được chứng minh rõ nét qua câu chuyện cứu khổ chúng sanh đầu tiên của tiền thân Đức Thích Ca Mâu Ni khi làm người trong vô lượng kiếp bị đọa vào địa ngục.

      Câu chuyện kể rằng: Tại địa ngục, Ngài và những người cùng khổ bị con quỷ cai ngục bắt vác những thùng phân hôi thối quá nặng đi đổ ở một nơi xa. Ngài vác xong, khi quay lui, Ngài nhìn thấy một người bạn mình đang hì hục đưa thùng phân lên vai hai, ba lần mà không được, vì quá gầy ốm, nên bị con quỷ cai ngục dùng cây gậy chĩa ba đánh đập thật tàn nhẫn.

      Trước cảnh tượng thân hình tiều tụy, gầy ốm của bạn mình bị con quỷ đánh ngã gục trên  đất. Ngài không cầm lòng được, tâm từ bi thương xót liền trỗi dậy, là năng lực bất chấp bạo lực của con quỷ, Ngài liền xông tới, dù cho bị con quỷ lớn tiếng nộ nạt, đưa gậy ngăn cản, nhưng ngài vẫn quyết liệt kê vai xuống vác giùm thùng phân nặng cho bạn mình, đem đến vị trí đổ phân.

      Sau những giờ phút hành thiện cứu khổ bạn mình bằng những hành động xông pha vác thùng phân, Ngài liền được thoát ra khỏi địa ngục, tái sanh lên cõi Người. Từ đó trong vô lượng kiếp làm người, dù ở giai cấp dân giả, thương gia, quý tộc, hoặc ở ngôi vị thái tử, Ngài luôn luôn có tâm từ bi biết thương yêu mọi người, từ trong quyến thuộc, ra ngoài xã hội thật bình đẳng, sẵn sàng hành động cứu khổ, giúp đỡ một cách tích cực, dù cho bị khổ lụy bản thân hay hy sinh tánh mạng, không từ nan vì xét thấy điều đó có lợi ích cho người và không quên tránh những điều ác không làm, vì xét thấy sẽ gây tác hại khổ đau cho chúng sinh, là con đường đọa lạc vào ba đường ác. Đây thuộc về trí tuệ do có nhận thức.

 

NHỮNG CÂU CHUYỆN TIỀN THÂN KHI LÀM NGƯỜI

1. Câu chuyện Thiện Hữu – Ác Hữu

       Ngài là Thiện Hữu, Ác Hữu là người anh cùng cha khác mẹ. Hai anh em cùng đi buôn các thứ ngọc trên biển. Thiện Hữu được nhiều đá quý hơn Ác Hữu. Do vậy trên đường về, qua đêm nghỉ lại ở một nơi, Ác Hữu đã gây thương tích trên đôi mắt Thiện Hữu đến nỗi bị mù, rồi tóm thâu hết ngọc báu của Thiện Hữu làm của riêng cho mình, bôn ba về nhà, bỏ Thiện Hữu ở lại, ra sao đó thì ra. Về đến nhà, Ác Hữu nói với mẹ rằng: em Thiện Hữu đã bị quân cướp giết chết và lấy hết của báu ...

2. Câu chuyện Cặp Mắt Thái Tử Câu Na La

      Câu chuyện kể rằng, thái tử Câu Na La bị bà mẹ kế (dì ghẻ) âm mưu sát hại để cho người con chính thức của bà được lên ngôi vua. Do vậy bà mới giả vờ bịnh nặng không có thuốc gì chữa được. Chỉ có một thứ thuốc chữa được,đó là đôi mắt của thái tử Câu Na La. Khi vua cha được nghe các ngự y trình bày như vậy, bèn truyền lệnh móc mắt thái tử để làm thuốc chữa bệnh cho hoàng hậu …

3. Câu chuyện Thái Tử Tu Đại Noa

      Câu chuyện kể rằng, một hôm Thái tử dẫn vợ và hai đứa con một trai, một gái đi dạo chơi tại một ngọn đồi đầy cây xanh, hoa cỏ thật đẹp gần một xóm dân nghèo. Đang ngoạn cảnh, thì có một ông lão nghèo khổ xuất hiện. Ông lão chắp tay vái chào thái tử, than rằng; thân già, nghèo khổ, không ai chăm sóc, thật neo đơn, buồn lắm. Vậy kính xin thái tử bố thí cho bà vợ để được an vui tuổi già. Thế là thái tử nói lời pháp bố thí thân mạng, là một phước báu lớn cho bà vợ nghe. Sau khi nghe rồi, bà vợ từ giã thái tử và hai con của mình, theo ông già xuống đồi và vào nhà ổng ở xóm nghèo, dù cho hai con khóc kể, bà mẹ vẫn đi...

      Sau khi bà vợ đi theo ông già, thì lại có  một bà lão từ trong xóm đi lên. Rồi cũng chắp tay trước thái tử, nói lời than rằng, tuổi già thật cô đơn, buồn lắm, không có con cháu làm vui. Vậy kính xin thái tử bố thí cho hai đứa con để nuôi làm con trong nhà cho vui cuộc đời ở tuổi già.

      Thái Tử liền đồng ý cho hai con cho bà lão. Nghe vậy hai đứa trẻ liền la khóc. Nhưng sau khi nghe lời người cha giảng giải về pháp bố thí, giúp người già cả sẽ được nhiều phước báu lớn ở kiếp sau, cho nên hai đứa trẻ liền vui vẻ, bằng lòng đi theo bà già về nhà bà ở dưới xóm nghèo…

   Trong sách truyện tiền thân của PHẬT, ngoài làm người, còn có những câu chuyện làm thân các loài vật: voi, nai, thỏ, sư tử v.v..., như chuyện con sư tử trọng pháp. Tức là nhìn thấy tên thợ săn khoác áo cà sa, nên sư tử quỳ lạy, liền bị tên thợ săn dương cung bắn chết, đem bộ lông dâng lên cho nhà vua để lấy nghìn lượng vàng. Hoặc câu con thỏ rừng dâng thịt cho vị thiền sư. Truyện kể rằng, vào mùa đông giá lạnh, vị thiền sư không đi khất thực cả tuần lễ. Một chiều nọ, vị thiền sư đốt lửa ngồi sưởi ấm, thì con thỏ liền nhảy vào ngọn lửa, bị chết thui. Việc này khiến cho vị  thiền sư cảm thương, nhưng đã hiểu được ý của con thỏ hy sinh thân mạng để dâng thịt làm thức ăn cho mình. Vị thiền sư chắp tay tụng lời Kinh hồi hướng công đức cho thỏ, sau đó mới ăn.

   Nhiều câu chuyện tiền thân của PHẬT làm thân chúng sinh ở cõi người hay loài vật, cõi nào Đức Phật cũng hành động các thiện pháp để bố thí, cứu khổ đem an vui, hạnh phúc, ấm no đến cho chúng sinh; vì chúng sinh trước đã, còn bản thân mình ra sao đó thì ra, khổ sở, tàn tật, mất mạng ... vẫn nhận chịu, không than thở. Điều đó, Đức Phật đã thấy rõ như ban ngày qua từng kiếp một ở vô lượng quá khứ sau giờ phút đại giác ngộ dưới cội Bồ Đề thành Phật.

      Trong tâm đại toàn giác đó, Đức Phật có  ba đại trí sáng suốt thật cao vời hơn tất cả các vị TRỜI, đó là: Thiên Nhãn Minh – Túc Mạng Minh – Lậu Tận Minh.

    Túc Mạng Minh: Trí sáng thấy biết thấu suốt tướng trạng của mình và tất cả chúng sanh từ một đời cho đến hàng trăm, nghìn, vạn đời ở thời quá khứ.

    Thiên Nhãn Minh: Trí sáng thấy biết thấu suốt các tướng trạng sinh tử của tất cả chúng sanh chết nơi này chuyển sinh nơi kia, chết nơi kia chuyển sinh nơi này; hoặc do nhân duyên xấu ác mà tạo nghiệp xấu ác, sau khi chết phải sinh vào các cảnh giới đau khổ; hoặc do nhân duyên thiện lành mà tạo nghiệp thiện lành, sau khi chết được sinh vào các cõi an vui, v.v...

    Lậu Tận Minh: Trí sáng suốt thấy biết rõ ràng mình đã chân thật chứng ngộ chân lí, đã giải thoát hoàn toàn cái tâm lậu hoặc, đã diệt trừ tận gốc rễ tất cả phiền não vô minh.

    Do qua quá trình kinh nghiệm thực chứng trên vận hành cứu khổ chúng sinh trong vô lượng kiếp như đã nói ở Ba Minh rất là gian nan khổ ải, nếu không có tâm tinh tấn, nhẫn nhục, khó mà thành Phật. Cho nên Đức Phật đã dư biết chúng sinh trong bốn chúng đệ tử Phật ở thời đại hậu lai gần ba nghìn năm sau, khó mà tạo ra PHƯỚC TRÍ để giải thoát, vì do có quá nhiều vô minh, phiền não, lậu hoặc, là tấm chắn ngăn che Phật tánh (tánh sáng vốn có). Vì thế Đức Phật đã mở rộng tình thương lớn ở từng bước hướng dẫn sẵn những phương cách thực tập Pháp và giới pháp để tạo PHƯỚC TRÍ cho những ai, thật sự có tâm mong muốn đi tìm cầu cho mình con đường giải thoát trong Đạo Phật, được đi cùng với lòng phát nguyện Quy Y Tam Bảo và lãnh thọ năm giới được xác định muốn giải thoát ở bước đầu tiên, sau đó bước giữa và bước cuối cùng PHƯỚC TRÍ vẹn toàn.

      Ba bước nói trên, chính là ba thời kỳ đầu tiên, giữa và cuối. Ba thời kỳ ở đây là ba giai đoạn học và thực tập Pháp và giới pháp từ sơ đẳng, trung đẳng và cao đẳng. Riêng sơ đẳng, bước đầu tiên mới nhập Đạo Phật, vấn đề học Phật và giới pháp đối với các hành giả sơ đẳng được hạn định rõ ràng. Còn ở hai giai đoạn trung và cao đẳng, học Phật và giới pháp không hạn định khi nào, do mức độ kiến Đạo và lòng phát nguyện của hành giả muốn tiến bước lên Phước Trí cao hơn mà có Phật pháp và giới pháp trung đẳng và cao đẳng. Với Chư Tăng Ni Sinh, được các bậc bổn sư của họ xem xét tuổi tác, đạo hạnh, khả năng học vấn Phật pháp của các đệ tử mình mà đưa đến các Giới Đàn để thọ các giới pháp như: 10 giới pháp Luật Nghi, 10 giới pháp Thiện hay Bồ Tát giới và cho học những giáo pháp cao hơn.

      Còn những nam, nữ Phật tử tại gia, tự mình xem xét tâm ý muốn tiến tu lên Phước Trí cao hơn, thì tự nguyện đến các Giới Đàn để xin đăng ký thọ giới pháp cao hơn là 10 giới pháp Thiện và Bồ Tát giới tại gia và học Phật pháp cao hơn ở đâu đó.

      Ba thời kỳ tiến tu của các hàng Phật tử nói chung; từ thời một, hai và ba, thời kỳ nào, cũng có học và thực hành pháp và giới pháp một cách song hành để được Phước và Trí, gọi là Phước Huệ song tu.

      Thời kỳ đầu tiên hay bước đầu tiên của các hành giả quay về đạo Phật, để tìm cầu con đường giải thoát, được Đức Phật cho hành lễ Quy Y Tam Bảo. Sau đó được Đức Phật truyền dạy cho Năm Giới Pháp và giáo pháp, BỐN CÁCH THU PHỤC (Tứ Nhiếp Pháp), đó là Bố Thí, Ái Ngữ, Lợi Hành và Đồng Sự.

      Hai thứ pháp: Bốn Cách Thu Phục và 5 giới pháp là nền tảng cơ bản. Cơ bản, được cắt nghĩa là bước đầu ở mọi việc của nhân loại ngoài xã hội và kể cả trong Đạo Phật, việc gì cũng phải được chắc chắn ở khởi điểm. Bằng không sẽ bị hỏng.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/02/2024(Xem: 822)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 1524)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 821)
Thông thường người ta vào học Phật ít nhiều cũng do có động lực gì thúc đẩy hoặc bởi thân quyến qua đời, hoặc làm ăn thất bại, hoặc hôn nhân dở dang v.v... nhưng cũng không ít người nhân nghe giảng pháp hay gặp một quyển sách khế hợp căn cơ liền phát tâm tu hành hay tìm hiểu học Phật pháp. Phần lớn đệ tử xuất gia hoặc tại gia của Hòa Thượng cũng vì cảm mộ pháp giải của Ngài mà quy y Phật. Quyển vấn đáp này góp nhặt từ những buổi giảng thuyết trong các chuyến hoằng pháp của Hòa Thượng, hy vọng cũng không ngoài mục đích trên, là dẫn dắt người có duyên vào đạo hầu tự sửa đổi lỗi lầm mà giảm trừ tội nghiệp.
20/01/2024(Xem: 923)
Năm xưa khi Phật thuyết kinh, hoàn toàn dùng khẩu ngữ vì bấy giờ nhân loại chưa có chữ viết (xứ Ấn). Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật mới kết tập laị những gì Phật dạy để lưu truyền cho đời sau. Đạo Phật dần dần truyền sang các xứ khác, truyền đến đâu thì kinh điển cũng được phiên dịch sang ngôn ngữ của xứ ấy. Lúc ban đầu kinh Phật được ghi chép bằng tiếng Phạn ( Sancrit, Pali ) sau đó thì dịch sang tiếng: Sinhale, Pakistan, Afghanistan, tiếng Tàu, Thái, Nhật, Hàn, Việt… và sau nữa là tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha…
20/12/2023(Xem: 1492)
Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Bạch X. Khỏe) định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1991, hiện đang giảng dạy Hóa học và Hóa học danh dự cho Trường trung học Mira Loma tại thủ phủ Sacramento, CA. Ông quy y với Thiền sư Trừng Quang Thích Nhất Hạnh, có Pháp danh là Tâm Thường Định. Ông đã và đang giảng dạy về Lãnh đạo chánh niệm và phương thức mang chánh niệm vào học đường ở bang California từ năm 2014. Tiến sỹ Bạch cũng giảng dạy cho chương trình huấn luyện giáo viên. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều công việc xã hội trong cộng đồng. Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ cũng được trao Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards).
19/12/2023(Xem: 4073)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
13/12/2023(Xem: 10132)
Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
12/12/2023(Xem: 4615)
Chánh Pháp và Hạnh Phúc (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
23/10/2023(Xem: 1778)
Lần đầu tiên, mạt nhân được biết tên tuổi của Ngài là vào năm 1986. Trong một lần đến chùa Dược Sư (quận Bình Thạnh) thỉnh kinh, lục lạo trong đống kinh sách cũ, vô tình mạt nhân tìm được cuốn A Di Đà Kinh Giảng Ký của pháp sư Thích Diễn Bồi. Giở xem thấy văn phong khá giản dị, đủ để một người vốn liếng chữ Hán nhấp nhem như mạt nhân khi đó hiểu được dễ dàng ý tác giả qua vài trang sách đầu tiên. Thế là với bản giảng kinh ấy, mạt nhân có dịp tập tành luyện đọc văn Bạch Thoại. Càng đọc càng thấy những lời giải thích của Ngài tuy giản dị, dễ hiểu, nhưng vẫn thâm trầm, hàm súc, có thể nói không quá đáng là lời giảng của Ngài rất lợi lạc cho mọi tầng lớp người đọc, nhất là hạng hành nhân sơ cơ. Từ nhân duyên đặc biệt ấy, mạt nhân tâm nguyện bất cứ khi nào mình có được một bản giảng kinh nào của Ngài, sẽ cố gắng dịch sang tiếng Việt.
08/06/2023(Xem: 2567)
Trong môi trường văn hóa xã hội của chính chúng ta, thay vì chỉ đổ lỗi cho người khác - đi đến một kết luận chung, có lẽ rất đáng bị đổ lỗi, chúng ta nên cùng nhau, với tư cách là đa số im lặng, đó là nếu mỗi người chúng ta làm việc một cách độc lập và riêng lẻ để phát triển những điều lành mạnh, nội tại, văn hóa tinh thần (Pali: citta-bhavana) của chính chúng ta và của toàn xã hội, và cuối cùng tập thể có thể trở nên được cải thiện đáng kể, đồng thời dựa trên cơ sở củng cố đạo đức và thực thi pháp luật và trật tự.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567