Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 5: Thư Mục Chú Thích

05/04/201315:17(Xem: 7850)
Phần 5: Thư Mục Chú Thích
Văn Học Phật Giáo Việt Nam - Tập 3

Phần 5: Thư Mục Chú Thích

Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
Nguồn: Tiến sĩ Lê Mạnh Thát


A. ĐẠI TẠNG KINH

Đời Nguyên biên tập. Nhật Bản, Đại chánh nhất thiết kinh san hành hội. Ảnh ấn, Trung Hoa Phật giáo văn hóa quán ảnh ấn Đại tạng kinh ủy viên hội. Các tác phẩm được sử dụng từ ấn bản này được ký hiệu theo số hiệu của mỗi tác phẩm. Viết tắt: ĐTK.

Trường a hàm kinh, 22 quyển, đời Hậu Tần, Phật Đà Da Xá, Trúc Phật Niệm cùng dịch. ĐKT 1. Tập I, tr. 1f.

Khởi thế nhân bản kinh, 10 quyển, đời Tùy, Đạt Mạ Cấp Đa, dịch. ĐTK 25. Tập I tr. 365f.

Bi hoa kinh, 60 quyển, đời Bắc Lương, Đàm Vô Sấm dịch. ĐTK 157. Tập III tr.167f.

Phật bản hạnh tập kinh, 60 quyển, đời Tùy, Xà Na Quật Đa dịch. ĐTK 190. Tập III tr. 655f.

Bách dụ kinh, 4 quyển, Tăng Già Tư Na soạn; đời Tiêu Tề, Cầu Na Tỳ Địa dịch. ĐTK 209. Tập IV, tr. 543f.

Kim cang bát nhã ba la mật kinh, 1 quyển, đời Diêu Tần, Cưu Ma La Thập dịch. ĐTK 235. Tập VIII, tr.748f.

Phật thuyết nhân vương bát nhã ba la mật kinh, 2 quyển, đời Diêu Tần, Cưu Ma La Thập dịch. ĐTK 245 Tập VIII, tr.825. Tham chiếu, ĐTK 246.

Nhân vương hộ quốc bát nhã ba la mật đa kinh, 2 quyển, Bất Không dịch. ĐTK 246. Tập VIII, tr. 834f. Tham chiếu, ĐTK. 246.

Diệu pháp liên hoa kinh, 7 quyển, đời Diêu Tần, Cưu Ma La Thập dịch. ĐTK. 262. Tập IX, tr.1f.

Đại thừa phương quảng tổng trì kinh, 1 quyển, đời Tùy, Tỳ Ni Đa Lưu Chi dịch. ĐTK. 275. Tập IX, tr. 379f.

Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh, 80 quyển, đời Đường, Thật Xoa Nan Đà dịch. ĐTK. 279. Tập X, tr.1f.

Phật thuyết quán vô lượng thọ Phật kinh, đời Lưu Tống, Cương Lương Da Xá dịch. ĐTK. 365. Tập XII, tr 340f.

Phật thuyết Tượng đầu tinh xá kinh, 1 quyển đời Tùy, Tỳ Ni Đa Lưu Chi dịch. ĐTK 466. Tập XIV, tr. 487

Duy Ma Cật sở thuyết kinh, 3 quyển, đời Diêu Tần, Cưu Ma La Thập dịch. ĐTK. 475. Tập XIV, tr. 537f.

Bồ tát niệm Phật tam muội kinh, 5 quyển, đời Lưu Tống, Công Đức Trực dịch. ĐTK. 414. Tập XIII, tr. 793f.

Kim Quang Minh kinh, 4 quyển, đời Bắc Lương, Đàm Vô Sấm dịch. ĐTK.663. Tập XVI, tr.335f.

Lăng già a bạt đà la bảo kinh, 4 quyển, đời Lưu Tống, Cầu Na Bạt Đa La dịch. ĐTK. 670. Tập XVI, tr. 480f.

Đại phương quảng viên giác tu đa la liễu nghĩa kinh, 1 quyển, đời Đường, Phật Đa La dịch. ĐTK. 842. Tập XVIII, tr. 913f.

Hoa nghiêm kinh tâm đà la ni, 1 quyển, không rõ dịch giả (phỏng đời Đường). ĐTK. 1021. Tập XIX, tr. 709f.

Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm bồ tát quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà la ni kinh, 1 quyển, đời Đường, Già Phạm Đạt Mạ dịch. ĐTK.1060. Tập XX, tr. 106f.

Di sa tắc bộ hòa hê ngũ phần luật, 30 quyển, đời Lưu Tống, Phật Đà Thập và Trúc Đạo Sinh cùng dịch, ĐTK.1421. Tập XXII, tr.1f.

Tứ phần luật, 60 quyển, đời Diêu Tần, Phật Đà Da Xá và Trúc Phật Niệm cùng dịch. ĐTK.1428. Tập XXII, tr.567f.

Thập tụng luật, 61 quyển, đời Hậu Tần, Phất Nhã Đa La và La Thập cùng dịch. ĐTK.1435. Tập XXIII, tr.1f.

Phạm võng kinh, 2 quyển, đời Hậu Tần, Cưu Ma La Thập dịch. ĐTK.1484. Tập XXIV, tr. 997f.

Đại trí độ luận, 100 quyển, Long Thọ Bồ Tát viết, đời Hậu Tần, Cưu Ma La Thập dịch. ĐTK.1509. Tập XXV, tr.57f.

A tỳ đạt mạ câu xá luận, 30 quyển, tôn giả Thế Thân viết, đời Đường, Huyền Tráng dịch. ĐTK.1558. Tập XXIX, tr. 1f.

Bách luận, 2 quyển, Đề Bà bồ tát viết, Bà Tẩu Khai Sĩ thích, đời Diêu Tần, Cưu Ma La Thập dịch. ĐTK.1569. Tập XXX, tr. 159f.

Du gìà sư địa luận, 100 quyển, Di Lặc Bồ Tát thuyết, đời Đường, Huyền Trang dịch. ĐTK.1579. Tập XXXI, tr.883f.

Đại thừa nghĩa chương, 26 quyển, đời Tùy, Huệ Viễn soạn. ĐTK.1851. Tập XLIV, tr.465f.

Vũ châu Tào Sơn Nguyên Chứng thiền sư ngữ lục, 1 quyển, Nhật Bản, Huệ Ấn hiệu đính. ĐTK.1987A. Tập XLVII, tr. 526f.

Vũ châu Tào Sơn Bản Tịch thiền sư ngữ lục, Nhật Bản, Huyền Khế biên. ĐTK.1987B. Tập XLVII, tr. 535f.

Viên châu Ngưỡng Sơn Huệ Tịch thiền sư ngữ lục, 1 quyển, đời Minh, Ngữ Phong Viên Tín và Quách Ngưng Chi biên. ĐTK.1990. Tập XLVII, tr. 582f.

Minh Giác thiền sư ngữ lục, 6 quyển, đời Tống, Duy Cái Trúc biên. ĐTK.1996. Tập XLVII, tr. 669f.

Phật Quả Viên Ngộ thiền sư bích nham lục, 10 quyển, đời Tống, Trùng Hiển tụng cổ, Khắc Cần bình xướng. ĐTK.2003. Tập LVIII, tr. 139f.

Vô môn quan, đời Tống, Tông Thiệu biên. ĐTK.2005. Tập XLVIII, tr. 292f.

Nhân thiên nhãn mục, 6 quyển, đời Tống, Trí Chiêu tập. ĐTK.2006. Tập XLVIII, tr. 300f.

Nam tông đốn giáo tối thượng đại thừa ma ha bát nhã ba la mật kinh Lục Tổ Huệ Năng đại sư Thiều châu Đại phạm tự thi pháp bảo đàn kinh, 1 quyển đời Đường, Pháp Hải tập. ĐTK.2007. Tập XLVIII, tr. 337f. Gọi tắt là Nam tông đàn kinh.

Lục Tổ đại sư pháp bảo đàn kinh, 1 quyển, đơiẵ Nguyên, Tông Bảo biên. ĐTK.2008. Tập XLVIII, tr. 345f.

Tín tâm minh, 1 quyển đời Tùy, Tăng Xán viết. ĐTK.2001. Tập LVIII, tr. 376f.

Vĩnh gia chứng đạo ca, 1 quyển, đời Đường, Huyền Giác soạn. ĐTK.2014. Tập XLVIII, tr. 395f.

Lịch đại tam bảo kỷ, 15 quyển, đời Tùy, Phí Trường Phòng soạn. ĐTK.2034. Tập XLIX, tr.22f.

Phật tổ lịch đại thông tải, 22 quyển, đời Nguyên, Niệm Thường soạn. ĐTK.2036. Tập XLIX, tr. 477f.

Thích thị kê cổ lược, 4 quyển, đời Nguyên Giác Ngạn biên. ĐTK.2037. Tập XLI X, tr.737f.

Phú pháp tạng nhân duyên truyện, 6 quyển, đời Nguyên Ngụy, Cắt Ca Dạ và Đàm Diệu dịch. ĐTK. 2058. Tập L, tr. 297f.

Cao tăng truyện, 14 quyển, đời Lương, Huệ Hạo soạn. ĐTK.2059. Tập L, tr. 322f.

Tục cao tăng truyện, 30 quyển, đời Đường, Đạo Tuyên soạn. ĐTK.2060. Tập L, tr. 425f.

Lịch đại pháp bảo ký, 1 quyển, không rõ tác giả. ĐTK. 2075. Tập LI, tr. 1797.

Cảnh đức Truyền đăng lục, 30 quyển, đời Tống, Đạo Nguyên soạn. ĐTK. 2076. Tập LI, tr. 196f.

Tục Truyền đăng lục, 36 quyển, khuyết danh. ĐTK. 2077. Tập LI, tr. 496f

Hoằng minh tập, 14 quyển, đời Lương, Tăng Hựu soạn. ĐTK. 2102. Tập LII, tr.1f.

Quảng hoằng minh tập 30 quyển, đời Đường, Đạo Tuyên soạn. ĐTK. 2103. Tập LII, tr. 97f.

Đại Tống tăng sử lược, 3 quyển, đời Tống Tán Ninh soạn. ĐTK. 2126. Tập LIV, tr. 234f.

Thích thị yếu lãm, 3 quyển, đời Tống, Đạo Thành tập. ĐTK. 2127. Tập LIV, tr. 257f.

Xuất tam tạng ký tập, 15 quyển, đời Lương, Tăng Hựu soạn. ĐTK. 2145. Tập LV, tr.1f.

Đại đường nội điển lục, 10 quyển đời Đường Đạo Tuyên soạn. ĐTK. 2149. Tập LV, tr. 219f.

Khai nguyên Thích giáo lục, 20 quyển, đời Đường, Trí Thăng soạn. ĐTK. 2154. Tập LV, tr. 477f.


B. TỤC TẠNG KINH

Bản chữ Vạn. Trung Quốc Phật giáo hội ảnh ấn Vạn tục tạng kinh ủy viên hội. Viết tắt là TcT đánh số theo số tập, ký hiệu là Vạn.

Pháp hoa thông nghĩa, 7 quyển, đời Minh, Đức Thanh thuật. TcT 509 Vạn 49

Ma ha chỉ quán nghĩa lệ toản yếu, 6 quyển, đời Tống, Tùng Nghĩa soạn. TcT 915 Vạn 99.

Tứ giáo nghi tập giải, 3 quyển, đời Tống, Tùng Nghĩa soạn. TcT 970. Vạn 102.

Tổ đình sự uyển, 8 quyển, đời Tống, Thiện Khanh biên chính. TcT 1246. Vạn 113.

Liêu đăng hội yếu, 30 quyển, đời Tống, Ngộ Minh tập. TcT 1528. Vạn 136.

Đại Quang Minh tạng, 3 quyển, đời Tống, Bảo Đàm thuật. TcT 1534. Vạn 137.

Ngũ đăng hội nguyên, 20 quyển, đời Tống, Phổ Tế tập. TcT 1536. Vạn 138.

Ngũ đăng nghiêm thống, 25 quyển, đời Minh, Thông Dung tập. TcT 1538. Vạn 139.

Chỉ nguyệt lục, 32 quyển, đời Minh, Cù Nhữ Tắc tập. TcT 1550. Vạn 143.


C. TỨ BỘ BỊ YẾU

Trân phỏng Tống bản, Trung Hoa thư cục ấn hành. Đài Loan, 1965. Toàn bộ 610 quyển, không ghi số mục. Dẫn chứng theo danh mục riêng của mỗi tác phẩm. Liệt kê dưới đây ghi theo bộ loại.

Chu dịch, 10 quyển, đời Ngụy, Vương Bật, đời Tấn, Hàn Bá chú. Kinh bộ: Thập tam kinh cổ chú.

Luận ngữ hà thị tập giản, 20 quyển, đời Ngụy, Hà Yển tập giải. Kinh bộ: Thập tam kinh cổ chú.

Sử ký, 130 quyển, đời Hán, Tư Mã Thiên soạn. Sử bộ: Nhị thập tứ sử.

Hán thư, 120 quyển, Hậu Hán, Ban Cố soạn. Sử bộ: Nhị thập tứ sử.

Hậu Hán thư, 120 quyển, đời Lưu Tống, Phạm Việp soạn. Sử bộ: Nhị thập tứ sử.

Tam quốc chí, 65 quyển, đời Tấn, Trần Thọ soạn. Sử bộ: Nhị thập tứ sử.

Tấn thư, 130 quyển, đời Đường, Phòng Huyền Linh phụng sắc soạn. Sử bộ: Nhị thập tứ sử.

Lương thư, 56 quyển, đời Đường, Dao Tư Liêm phụng sắc soạn. Sử bộ: Nhị thập tứ sử.

Tùy thư, 85 quyển, đời Đường Ngụy Trung phụng sắc soạn. Sử bộ: Nhị thập tứ sử.

Cựu đường thư, 200 quyển, Hậu Tấn, Lưu Hú phụng sắc soạn. Sử bộ: Nhị thập tứ sử.

Tân đường thư, 225 quyển, đời Tống, Âu Dương Tu phụng sắc soạn. Sử bộ: Nhị thập tứ sử.

Tống sử, 496 quyển, Thác Khắc soạn. Sử bộ: Nhị thập tứ sử.

Nguyên sử, 210 quyển, Tống Liêm soạn. Sử bộ: Nhị thập tứ sử.

Chiến quốc sách, 33 quyển, Hậu Hán, Cao Dụ chú. Sử bộ: Cổ sử.

Hàn phi tử, 20 quyển, đời Chiến quốc, Hàn Phi soạn. Tử bộ: Chu Tần chư tử.

Lã thị xuân thu, 26 quyển, đời Chiến Quốc, Lã Bất Vi, tân khách soạn. Tử bộ: Chu Tần chư tử.

Lão Tử Đạo đức kinh, 29 quyển, đời Ngụy, Vương Bật chú. Tử bộ: Chu Tần chư tử.

Trang Tử nam hoa kinh, 10 quyển, đời Tấn, Quách Tượng chú. Tử bộ: Chu Tần chư tử.

Bạch Thạch đạo nhân thi tập ca khúc, thi tập, 2 quyển, tập ngoại thi 1 quyển, ca khúc 4 quyển, biệt tập 1 quyển, đời Tống, Khương Quỳ soạn tập. Tập bộ: Tống biệt tập.

Tuyệt diệu hảo từ tiêm, 7 quyển, đời Tống, Chu Mật biên tập; đời Thanh, Tra Vi Nhân tiên chú. Tập bộ: Tổng tập.

Từ tổng, 38 quyển, đời Thanh, Chu Di Tôn biên tập. Tập bộ: Tổng tập.

Tống lục thập danh gia từ, 89 quyển, đời Minh, Mao Tấn biên tập. Tập bộ: Tổng tập.

Từ luật, 20 quyển, đời Thanh, Vạn Thọ biên tập. Tập bộ: Thi văn bình.


D. NHỮNG TẬP TRUNG QUỐC KHÁC

Bảo phác tử, 8 quyển, đời Tấn, Cát Hồng soạn. Bản in đời Thanh.

Độc sử phương dư kỷ yếu, 130 quyển, đời Thanh, Cố Tổ Vũ soạn. Bản in đời Thanh.

Lâm gian lục, 3 quyển, đời Tống, Thích Đức Hồng, bản in đời Minh, 1584.

Lĩnh ngoại đại đáp, 15 quyển, đời Tống, Chu Khứ Phi soạn. Bản in Tri bất túc trai tòng thư; Nghiêm Nhất Bình ảnh ấn, Bách bộ tòng thư tập thành, Đài bắc, từ 1960.

Mộng khê bút đàm, 26 quyển, đời Tống, Thẩm Quát soạn. Bản in Học tân thảo nguyên tòng thư; Nghiêm Nhất Bình ảnh ấn, Bách bộ tùng thư tập thành, Đài Bắc, từ 1960.

Nguyên hòa quận huyện đồ chí, 40 quyển, đời Đường, Lý Cật Phủ. Bản in Vũ anh điện tụ trân bản tòng thư, Nghiêm Nhất Bình, ảnh ấn, Bách bộ Đại Việt sử ký toàn thư tập thành, Đài bắc, từ 1960.

Thái Bình hoàn vũ ký, 193 quyển, đời Tống, Nhạc Sử soạn. Bản in đời Thanh.

Thái Bình quảng ký, 500 quyển, đời Tống, Lý Phưởng. Bản in đời Thanh.

Thông điển, 200 quyển, đời Đường, Đỗ Hựu soạn. Hồng bản thư cục thạch ấn, Quang Tự 26 (1900).

Toàn đường thi, 900 quyển, đời Thanh Khang Hy sắc biên, Bành Định Cầu chủ biên, Vương Toàn hiệu điểm. Trung hoa thư cục xuất bản, Bắc kinh, 1960.

Toàn đường văn, 1000 quyển, Thanh Gia Khánh sắc biên, Đỗng Cật chủ biên. Bản chép tay, ảnh ấn, Đài bắc, 1960- 1963.

Tống hội yếu (chấp cảo), 460 quyển, đời Thanh, Từ Tùng biên tập. Bắc Bình đồ thư quán, ảnh ấn, 1935.

Tục tư trị thông giám trường biên, 520 quyển, đời Tống, Lý Đào biên. Bản in Đàm Chung Lân năm 1881, Dương Gia Lạc ảnh ấn, Thế giới thư cục xuất bản, Đài bắc, 1962.

Văn uyển anh hoa, 1000 quyển, đời Tống, Lý Phưởng phụng sắc biên. Bản in đời Minh (1566) Trung Hoa thư cục ảnh ấn. Bắc Kinh, 1966.


E . SỬ LIỆU VIỆT NAM

An nam chí lược, 19 quyển, Lê Thực soạn. Hiệu bản, Viện Đại học Huế, Huế, 1961.

An nam chí nguyên, 3 quyển, Hiệu bản của Gaspardone, Trường Viễn đông bác cổ, Hà Nội, 1934.

Bắc thành dư điạ chí lục, 4 quyển, Nguyễn Đông Khê. Bản chép tay của Trường Viễn đông bác cổ. Ảnh ấn, Sài gòn, 1969.

Đại nam nhất thống chí, 1. Phần Trung bộ, 17 quyển; bản in của Cao Xuân Dục, Duy Tân 3 (1909). 2. Phần Bắc bộ, 14 quyển; bản chép tay của Đông dương văn khố. Ảnh ấn, Sài Gòn, 1966-1970.

Đại việt lịch triều đăng khoa lục, 3 quyển, Nguyễn Hoàn và nhiều người. Bản chép tay, không ghi năm.

Đại Việt sử ký toàn thư, 19 quyển, Ngô Sĩ Liên. Bản in Quốc tử giám đời Nguyễn. Vi phim của Trường Viễn đông bác cổ. A.54.

Đại Việt sử lược, 3 quyển, Bản in Thủ sơn các tùng thư, 1848.

Đại Việt thông sử, 3 quyển, Lê Quý Đôn. Bản chép tay, Trường Viễn đông bác cổ. Ảnh ấn, Sài Gòn, 1973.

Đạo giáo nguyên lưu, 3 quyển, An Thiền soạn. bản in năm 1847.

Hồng đức bản đồ, bản in Sài Gòn, 1962.

Khâm định Việt sử thông giám cương mục, 50 quyển, Bản in Quốc tử giám đời Nguyễn, Hoàng Quí Lục ảnh ấn, Quốc ttập Trung Anh đồ thư quán xuất bản, Đài bắc, 1969.

Kiến văn tiểu lục, 12 quyển (thiếu quyển ba), Lê Quí Đôn soạn. Bản chép tay, vi phim Trường Viễn đông bác cổ, A.312.

Lịch triều hiến chương loại chí, 49 quyển, Phan Huy Chú soạn. Phần “dư địa chí”, (quyển 1-5) dùng theo bản chép tay của Chi nhánh Văn khố Đà lạt, số 3064-3065 MC; ảnh ấn Sài Gòn, 1971. Phần “Văn tịch chí” (quyển 42-45), bản chép tay của Trần Trọng Tuy, Thủ bản Trường Viễn đông bác cổ.

Lĩnh nam chích quái truyện, 3 quyển, Trần Thế Pháp. Bản in của Viễn đông học viện Pháp, do Học sinh thư cục của Đài loan ấn hành, 1992.

Nam ông mộng lục, 1 quyển, Lê Trừng soạn. Bản in, Hàm Phần Lâu tùng thư, Thượng hải, 1930.

Phương đình dư địa chí, 5 quyển, Nguyễn Siêu. Bản chép tay, không ghi năm.

Tả ao địa lý chân truyền, Tả Ao soạn. bản chép tay, không ghi năm.

Tam tổ thực lục, Tính Quảng và Hải Lượng biên tập. Việt Nam Phật Điển Tùng San, Hà Nội, 1943.

Tang thương ngẫu lục, 2 quyển, Phạm Đình Hổ . Bản chép tay, không ghi năm.

Tây hồ chí, không rõ tác giả (soạn khoảng thời Tự Đức). Bản chép tay, không ghi năm.

Thánh đăng lục, không rõ tác giả. Bản in không ghi năm (nghi là đời Mạc).

Thích song tổ ấn, Thích Tịnh Hạnh viết. Bản in chùa Thiền lâm, Phan Thiết, 1924.

Thiền uyển kế đăng lục, Như Sơn soạn. An Thiền tăng bổ. Việt Nam Phật điển tùng san. Hà Nội, 1943.

Thượng sĩ ngữ lục, Tuệ Trung thượng sĩ. Việt Nam Phật điển tùng san. Hà Nội, 1943.

Ức trai di tập, 10 quyển, Nguyễn Trãi. Bản in Ngô Thế Vinh năm 1868. Ảnh ấn, Sài Gòn, 1972.

Việt điện u linh tập, 1 quyển, Lý Tế Xuyên. Bản in của Viễn đông học viện Pháp, do Học sinh thư cục của Đài loan ấn hành, 1992

Việt sử tiêu án, 2 quyển, Ngô Thì Sĩ. Thủ bản, vi phim của Trường Viễn Đông Bác Cổ, A.265.

Ải, 283, 555

Ái Châu, 94, 286, 313, 500, 545, 563, 649
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/11/2021(Xem: 21208)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 14914)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 15065)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 17737)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 16734)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 21067)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 14585)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 9105)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 24298)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 13410)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]