Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bản dịch Thiền uyển tập anh (3)

05/04/201314:04(Xem: 7774)
Bản dịch Thiền uyển tập anh (3)
Văn Học Phật Giáo Việt Nam - Tập 3

Bản Dịch Thiền Uyển Tập Anh (3)

Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
Nguồn: Tiến sĩ Lê Mạnh Thát

60.THIỀN SƯ PHÁP DUNG (1) (?-1174)

Chùa Hương Nghiêm, núi Ma Ni (2), phủ Thanh Hóa. Người Bối lý (3), họ Lê, là hậu duệ của Châu mục Ái Châu Lê Lương đời Đường (4), trải 15 đời là một họ nổi tiếng của châu đó. Cha là Huyền Ngưng, đạo hiệu Tăng Phán (5). Sư hình dung tú dị, ăn nói thanh cao. Đối với kinh vàng kệ ngọc, không gì là không đọc tụng. Nhỏ theo Tăng thống Nguyễn Khánh Hỷ xuất gia (6). Hỷ thấy, lấy làm lạ, bèn trao (63b1) pháp ấn (7). Từ đó, Sư buông chí núi sông, chẳng ngại chỗ tới. Đến lúc phải đi hóa đạo, Sư bèn trác tích tại chùa Khai Giác núi Thứu Phong, dạy dỗ học trò (8), người học đầy nhà. Sau sư trở về núi Ma Ni, dựng chùa để dưỡng lão.

Ngày mồng 5 tháng 2 năm Giáp Ngọ Thiên Cảm Chí Bảo thứ nhất (1174) (9), Sư không bệnh mà hóa. Môn nhơn Đạo Lâm v.v.. làm lễ hỏa táng ở núi đó và dựng tháp để thờ.


THẾ HỆ THỨ MƯỜI SÁU (BA NGƯỜI)

61. THIỀN SƯ TRÍ NHÀN [43] (1)

Am Phù Môn, núi Cao Dã, Yên Lãng (2). Người Phong Châu (3), họ Lê, tên Thước là miêu duệ của Ngự Man Vương triều Lê (4). Ông nội là Thuận Tông làm quan với triều Lý đến chức Trung thư Đại liêu ban, lấy công chúa Kim Thành (5). Cha là Đạc, làm quan đến chức Minh Tự. Anh là Kiếm, xa nhận chức Tam nguyên Đô tuần kiểm cùng được bổ làm Châu mục (6). Sư sớm lo việc học hành, thi đậu tiến sĩ, sung làm Cung hầu thư gia (7).

Năm 27 tuổi, một hôm (64a1) theo anh dẫn tới trường giảng của Giới Không, nghe giảng kinh Kim cang đến câu “Tất cả pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt bóng, như sương cũng như chớp, nên quán sát như thế” (8). Sư bỗng nhiên cảm ngộ, than rằng: “Năm lời của Như Lai (9) đâu có điêu ngoa. Các pháp thế gian giả dối không thật, chỉ có đạo là thật. Ta lại đi tìm gì nữa? Vả, nhà Nho có thể nói tới đạo vua tôi, cha con (10), còn Phật pháp thì có thể bàn đến công hạnh của Thanh văn, Bồ tát (11). Hai lời dạy dù khác nhưng đều quy về một. Tuy nhiên, để ra khỏi cái khổ của sống chết, và dứt trừ điều có không, thì nếu không phải giáo lý của đức Thích Ca, quyết không thể vậy”. Bèn xin xuống tóc.

Sau khi đã hiểu được yếu chỉ, Sư vào thẳng núi ấy, ở dưới gốc cây ngày đọc kinh, đêm thiền định, chuyên tu khổ hạnh, thề đủ sáu năm.

Một hôm Sư ngồi thấy một con cọp đuổi một con nai đến, Sư dỗ rằng: “Tất cả chúng sinh đều tiếc tánh mạng, ngươi chớ nên giết hại nhau”. Cọp cúi đầu sát đất, tỏ dấu quy y rồi đi.

Về sau, Sư làm một cái am ở dưới chân núi, dạy dỗ học trò. Bốn phương cúng dường, của chất thành đống. Mọi Lào gần núi (64b1) gọi nhau họp lại làm trộm. Mỗi khi Sư ra đi, thường có con cọp lớn nằm giữ cửa am. Bọn trộm không dám xâm phạm. Người được Sư dẫn dụ trở về đường lành, số không thể kể xiết.

Hai triều đại Anh Tông và Cao Tông, nhiều lần triệu thỉnh mà Sư không đáp. Phụ quốc Thái úy Tô Hiến Thành và Thái bảo Ngô Hòa Nghĩa đem lễ thầy trò đến tìm, trải qua 10 năm chưa hề biết mặt. Bỗng một hôm, Sư cùng các vị ấy gặp nhau, họ vui mừng khôn xiết. Vừa chào hỏi xong, Sư nói bài kệ rằng:

Đã mang chí vượt, dưỡng trong lòng
Nghe nói lời mầu, ý những nương
Tham dục bỏ xa ngoài vạn dặm
Hi di diệu lý ngày bao dung (12)

Lại nói:
Đạm bạc giữ mình
Chỉ đức là việc
Hoặc bảo lời lành
Một câu khăng khít
Lòng không kia, ta
Đã hết mù mịt
Ngày đêm xuống lên
Không hình bám vít
Như bóng như vang
Không dấu theo vết

Nói xong, Sư chấp tay ngồi thẳng mà mất. Các vị trên và đệ tử khóc lớn, tiếng vang rung động cả núi rừng.


62. THIỀN SƯ CHÂN KHÔNG (65a1) (1046-1100)

Chùa Chúc Thánh, núi Phổ Lại, Phù Lan (1). Người Phù Đổng, Tiên Du, họ Vương, tên Hải Thiềm, xuất thân từ vọng tộc. Khi mẹ mang thai, cha mộng thấy một Tăng sĩ trao cho tích trượng, nhân đó có được Sư.

Thuở nhỏ Sư mồ côi, khổ công đọc sách, không thích việc vặt. Năm 15 tuổi rộng hiểu sách sử. Đến tuổi đội mũ Sư dạo khắp thiền lâm đi tìm ấn chứng. Nhân đó đến hội giảng của Thảo Nhất chùa Tịnh Lự, núi Đông Cứu (2) nghe giảng kinh Pháp hoa, Sư bỗng nhiên tỏ ngộ.

Từ đó, cơ duyên hòa hợp, rùa gỗ gặp nhau (3). Nhập thất sáu năm, xét hỏi ngày thêm tiến bộ. Liền nhận được tâm ấn, bèn đến ở núi ấy theo luật mà tự giữ, không xuống cửa núi, trải qua 20 năm tiếng khen đồn khắp.

Vua Lý Nhân Tông nghe được, xuống chiếu mời vào đại nội giảng kinh Pháp hoa, thính giả tìm đến tấp nập. Bấy giờ, Thái úy Nguyễn Thường Kiệt, Thứ sử Lạng Châu là tướng quốc Thân Công (4) càng thêm kính trọng, thường bỏ của riêng ra cúng dường Sư. Sư được những gì đều đem sửa chùa xây tháp (65b1) và đúc hồng chung để lưu lại ở trấn.

Một lần, có vị Tăng hỏi: “Thế nào là đạo mầu?”

Sư đáp:
“Giác ngộ rồi mới biết”.

Tăng hỏi thêm:
“Giáo chỉ từ xưa người học này chưa hiểu. Nay dạy như vậy làm sao hiểu được?”.

Sư đáp:
“Nếu đến nhà tiên trong động thẳm
Thuốc đan đổi cốt được đem về”.

Hỏi:
“Thế nào là viên thuốc đan?”.

Sư đáp:
“Nhiều kiếp ngu si không hiểu rõ
Sáng nay chợt ngộ được tỏ bày”.

Hỏi:
“Thế nào là tỏ bày?”.

Sư đáp:
“Tỏ bày chiếu khắp cõi Ta bà
Tất cả chúng sinh cùng một nhà”.

Lại hỏi:
“Tuy không giải đích xác chốn chốn đều gặp y (5). Cái nào là y?”.

Sư đáp:
“Lửa kiếp (6)lẫy lừng thiêu rụi hết
Núi xanh như cũ trắng mây bay”.
Lại hỏi: “Sắc thân tan rã rồi thì sao?”.

Sư đáp:
“Xuân đến xuân đi nghi xuân hết
Hoa rơi hoa nở chỉ là xuân”.
Tăng ngẫm nghĩ, Sư quát:
“Đồng bằng sau cơn lửa
Cây cối mỗi tươi thơm”.

Tăng vái lạy.

Tuổi già, Sư về quận mình, dựng lại chùa Bảo (66a1) Cảm. Đến ngày 01 tháng 11 năm Hội Phong thứ 9 (1100), khi sắp tịch, Sư nói bài kệ:

Trống vắng gốc màu sáng rực ra
Gió hòa nổi dậy khắp Ta bà
Người người thảy biết vô vi sướng
Nếu được vô vi mới phải nhà

Vào nửa đêm hôm đó, Sư lại nói:
Đạo ta đã thành
Giáo ta đã thành
Ta theo biến hóa

Rồi ngồi kiết già mà mất, thọ 55 tuổi đời, 36 tuổi hạ (7). Hoàng thái hậu và công chúa Thiên Thành (8), cùng đệ tử Ni sư Diệu Nhân (9) đều đem dâng lễ vật. Qua hai ngày sau, đại sư Nghĩa Hải chùa Đại Minh và Sa môn được ban ấn tín Pháp Thành đem đồ chúng và sắm sửa lễ vật đến chôn Sư, xây tháp ở ngoài trai đường. Học sĩ Nguyễn Văn Cử phụng chiếu soạn bài minh cho tháp, Công bộ thượng thư Đoàn Văn Khâm có thơ truy điệu rằng:

Triều đình thôn dã nức cao phong
Gậy chống như mây gặp hội rồng
Kinh hãi nhà nhân, cây huệ gẫy
Than dài rừng đạo, đọt tùng buông
Cỏ biếc vây mồ thêm tháp mới
Núi xanh soi nước thấy hình vương (66b1)
Cửa thiền vắng vẻ nào ai gõ
Qua đấy chuông chiều vẳng tiếng buồn(10)


63. THIỀN SƯ ĐẠO LÂM (?-1203)

Chùa Long Vân, làng Siêu Loại, Long Phước (1). Người Cửu Cao, Chu Diên (2), họ Tăng sớm mộ Không tôn (3), chí hạnh thuần khiết. Ban đầu, Sư theo Pháp Dung chùa Hương Nghiêm thọ nghiệp. Trải qua nhiều năm, mật nhận tâm ấn, bèn được chính Dung giao phó đèn Tổ, tùy chỗ thắp sáng, theo cơ giúp việc, lợi người không ít.

Đến tháng 5 năm Quý Hợi Thiên Gia Bảo Hựu thứ 2 (1203), Sư ngồi kiết già mà mất.


THẾ HỆ THỨ MƯỜI BẢY (CÓ BỐN NGƯỜI, MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)

64. THIỀN SƯ DIỆU NHÂN (1042-1113)

Viện Hương Hải, làng Phù Đổng, Tiên Du. Cô tên là Ngọc Kiều, con gái lớn của Phụng Yết Vương (1), bẩm tính hiền thục, ngôn hạnh có pháp. Vua Lý Thánh Tông nuôi ở trong cung. Đến tuổi cập kê, vua gả cho Châu mục Chân đăng họ Lê. Họ Lê mất, tự thề ở vậy giữ nghĩa (67a1) không tái giá.

Một hôm than rằng: “Ta xem thế gian, hết thảy các pháp cũng như mộng huyễn, huống gì bọn phù vinh có thể nương tựa được sao?”

Do đó, đem cho sạch các đồ trang sức, xuống tóc xuất gia, đến thọ Bồ tát giới với Chân Không tại làng Phù Đổng, học hỏi tâm yếu. Chân Không vì vậy ban hiệu và cho phép trụ trì tại Ni viện. Cô giữ giới, hành thiền, đạt được Tam ma địa, thật là bậc tôn túc trong hàng Ni chúng. Có ai đến cầu học, Cô tất đem Đại thừa ra giảng dạy và nói: “Chỉ trở về nguồn tự tính, thì đốn tiệm có thể tùy đó mà thể nhập, hãy thường tịch tịnh, tránh xa thanh sắc, ngôn ngữ”.

Có học trò hỏi: “Tất cả chúng sinh bệnh, cho nên ta bệnh (2), sao gọi là khi nào cũng tránh xa thanh sắc?”.

Cô đem giáo nghĩa đáp: “Nếu lấy sắc thấy ta, lấy âm thanh cầu ta, là người làm tà đạo, không thể thấy Như Lai”(3).

Lại hỏi: “Sao gọi là ngồi yên?”(4)

Cô đáp: “Xưa nay không đi”.

Lại hỏi: “Sao gọi là không lời?”

Cô đáp: “Đạo vốn không lời”.

Ngày 01 tháng 6 năm Hội Tường Đại Khánh thứ 4 (1113), Cô cáo bệnh (5) (67b1) nói kệ:

Sinh, già, bệnh, chết
Từ xưa thường vậy
Muốn cầu thoát ly
Cởi trói thêm buộc
Mê mới tìm Phật
Lầm mới cầu thiền
Thiền Phật chẳng tìm
Ngậm miệng không nói(6)

Bèn gội tóc, rửa mình, ngồi kiết già mà tịch, thọ 72 tuổi.


65. THIỀN SƯ VIÊN HỌC (1073-1136)

Chùa Đại An Quốc, làng Cổ Hạnh, Tế Giang (1). Người Như Nguyệt (2), họ Huỳnh. Nhỏ học sách đời, đến tuổi đội mũ, đi học nội điển (3), nhân nghe một câu nói của Chân Không, tâm địa bỗng nhiên tỏ ngộ.

Từ ấy, thiền học cao vút, luật nghi không ngại, thân mặc một áo suốt mùa lạnh nóng, bình bát tích trượng mang theo bên mình, tùy phương khai hóa; cho đến sửa cầu, đắp đường, không việc nào là không xung phong trước. Sau, Sư về làng Phù Cầm, trùng tu chùa Quốc Thanh và đúc chuông. Thường có bài kệ duyên hóa sau:

Sáu thức (5) thường mê đêm trọn khổ,
Vô minh che khuất mãi lười buông
Sớm tối nghe chuông khơi giác ngộ
Thần lười diệt sạch được thần thông

Ngày 14 tháng 6 mùa hè năm Bính Thìn Thiên Chương Bảo Tự thứ 4 (1136), Sư thị tịch, thọ (68a1) 64 tuổi. Các môn đệ Ngô Thông Thiền (6), Lưu Vương Nhân, Lữ Pháp Hoa và Châu Diệu Dụng thu di cốt, xây tháp để thờ.


66. THIỀN SƯ TỊNH THIỀN (1121-1193)

Chùa Long Hoa, làng Cổ Giao, Long Biên. Người làng Cổ Giao, họ Phí, tên Hoàn. Ban đầu, cùng với bạn đồng học là Tịnh Không thờ Đạo Lâm chùa Long Vân làm thầy. Hằng ngày miệt mài học hỏi, sâu hiểu lẽ huyền, Lâm biết Sư sẽ là pháp khí, nên ban hiệu và ấn chứng rằng: “Tịnh là tịnh trí diệu viên, Thiền là thiền tâm thường tịch”. Đến khi Lâm tịch rồi, Sư bèn đi khắp chốn thiền, tìm bạn học thêm. Lúc duyên đạo đã thuần, bèn về làng cũ, trùng tu chùa Long Hoa. Ngoài lúc khảo sát thiền luật, Sư luôn nghĩ đến việc lợi tha.

Ngày 12 tháng 8 mùa thu năm Quí Sửu Thiên Tư Gia Tự thứ 6 (1193) Sư thị tịch, thọ 73 tuổi. Môn đồ là Pháp Ký soạn bia văn tại chùa có nói:

Sư sinh đời Lý
Ra gặp thời minh
Lục độ (1) há quen
Tứ hoằng (2) không bỏ
Chén thơm chỗ nổi
Mười phương tín chủ sóng về
Gậy tích khi khua
Bốn chúng học đồ mây nhóm
Thần thông khôn tính
Huyền dụng khó lường
Nếu chẳng đến Phật giác trường
Đâu hay thảnh thơi nghiệp tốt.

Quả đúng:
Trời Thích trăng báu
Vườn Pháp thôn thiêng.


THẾ HỆ THỨ MƯỜI TÁM (CÓ HAI NGƯỜI, MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)

67. QUỐC SƯ VIÊN THÔNG (1080- 1151)

Chùa Quốc Ân, làng Cổ Hiền, Nam Định (1). Người Cổ Hiền, họ Nguyễn tên Nguyên Ức. Sau về ngụ tại phường Thái Bạch (2) kinh thành Thăng Long, nhân thể làm nhà ở đó. Dòng dõi làm Tăng quan. Cha là Huệ Dục làm quan triều vua Lý Nhân Tông đến chức Tả hữu nhai tăng lục, đạo hiệu là Bảo Giác thiền sư (3). Sư bẩm tính thông minh, tài học tinh diệu, sớm có chí xuất trần, thường gặp Viên Học chùa An Quốc, nhân đó mà được yếu chỉ. Năm Hội Phong thứ 6 (1197), đỗ Giáp khoa khoa thi tam giáo (4) được sung vào chức Đại văn. Năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 8 (1106), vua chọn những bậc hoằng tài trong thiên hạ, để bổ vào chỗ khuyết trong giai Tăng đạo, Sư lại đứng đầu trong kỳ thi tuyển này, Vua càng cho (69a1) là lạ, sắp đem trao Sư quyền hành chăn dân. Sư cố từ không được, bèn nhận chức Nội cung phụng truyền giảng pháp sư.

Từ đó, Sư tùy cơ diễn hóa, chỉ bày yếu chỉ, giác ngộ cho người, giải điều mê trừ việc dốt, quyết không để vết. Những kẻ thọ nghiệp với Sư đều được hiển danh đương thời.

Năm Thiên Phù Khánh Thọ thứ nhất (1127), chùa Trung Hưng diên thọ làm xong (5), vua sai Sư soạn văn bia. Vua kính trọng tài Sư, nên đổi Sư làm Tả nhai tăng lục. Năm Đại Thuận thứ 3 (1130), Lý Thần Tông mời Sư vào điện Sùng Khai. Vua hỏi về lý trị loạn hưng vong trong thiên hạ.

Sư đáp: “Thiên hạ cũng như đồ dùng, để chỗ yên thì được yên, để chỗ nguy thì bị nguy, xin đấng nhân chủ hãy làm sao được như thế. Dùng đức hiếu sinh hợp với lòng dân, cho nên dân yêu thương như cha mẹ, trông ngóng như trời trăng. Đó là để thiên hạ vào chỗ yên vậy”

Lại đáp: “Việc trị loạn là do quan chức, được người thì trị, mất người thì loạn. Thần từng xem qua các triều vua chúa đời trước, chưa từng có triều đại nào, không dùng bậc quân tử mà được thịnh, không dùng kẻ tiểu nhân mà (69b1) suy. Cho đến nỗi như thế, không phải nguyên nhân một sớm một chiều, mà chỗ do lai đã lâu lắm vậy (6). Trời đất không thể bỗng nhiên sinh ra nóng lạnh tức là tuần tự có xuân, thu. Đấng nhân quân (không thể) bỗng nhiên trở nên hưng vong, tất là từ từ có thiện, ác. Thánh Chúa đời xưa vì biết nó như vậy, nên nương theo cái đức không nghỉ của trời để sửa mình, dựa vào cái đức không nghỉ của đất để yên người. Sửa mình tức cẩn thận trong lòng, run rẩy như đi trên băng mỏng. Yên người là kính yêu kẻ dưới, sợ hãi tựa leo bám cành mục. Làm thế thì không gì là không hưng, trái thế thì không gì là không suy, sự lần hồi của việc hưng vong, chính ở nơi đây vậy”.

Sư đối đáp quả thật xứng chỉ, nên được thăng làm Hữu nhai tăng thống tri giáo môn công sự. Sư được tự do gần vua, dâng lời chỉ bảo, chưa từng thiếu sót. Sau đó Sư phụng chiếu đến đền Tây dương (7) cầu giữ thai vua có ứng nghiệm. Do đó, vua càng thêm kính trọng, ban cho Sư khi vào triều được đứng ngang hàng với Thái tử.

Năm Thiên Chương Gia Thụy thứ 5 (1137), xe vua gác giá (8) Sư dự nhận cố mạng và (70a1) phụng di chiếu, chủ trì mọi việc bàn tính phó thác. (9)

Năm Thiệu Minh thứ 1 (1137), Anh Tông khi đã lên ngôi, Thái hậu (10) nhiếp chính (11), cho Sư đã có công giúp vua, và nhiều lần trọng thưởng. Sau đó, Sư về lại quận mình lập chùa dưỡng già. Phí tổn xây dựng (12) đều do quỹ Vua ban cấp, đồng thời ban chữ (13) để chùa thêm sang.

Năm Đại Định thứ 4 (1143) Vua thăng Sư giữ chức Tả hữu nhai tăng thống nội cung phụng tri giáo môn công sự truyền giảng Tam tạng văn chương ứng chế hộ quốc quốc sư tứ tử y đại sa môn. Đức vua đã trọng Sư, nên quần thần lại càng trọng vọng hơn nữa. Từ triều đình đến thôn dã cũng đều như thế.

Ngày 21 tháng 4 nhuần năm Tân Mùi Đại Định (1151), Sư nhóm đồ chúng từ biệt, không bệnh mà mất, thọ 72 tuổi. Sư thường phụng chiếu biên soạn Chư Phật Tích duyên sự hơn 30 quyển (15), Hồng chung văn bi ký, Tăng gia tạp lục hơn 50 quyển (14) và thi phú hơn nghìn bài (16) lưu hành ở đời.


THẾ HỆ THỨ MƯỜI CHÍN (HAI NGƯỜI, MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)

68. THIỀN SƯ Y SƠN (70b1) (?- 1216)

Chùa Đại Từ, Đại Thông Trường, Long Phúc (1). Người Cẩm Hương, Nghệ An (2), họ Nguyễn, Sư mặt mày đẹp đẽ, ăn nói hoạt bát. Thuở nhỏ đi học, coi khắp thư sử, chọn bạn, lựa nghề tất nhằm hữu ích. Nhưng đối với kinh điển Tây Trúc, Sư hết sức lưu tâm. Năm 30 tuổi sư xuất gia với một vị Trưởng lão trong làng, sau đến kinh thành tham bái Quốc sư Viên Thông, nhờ một lời nói, đạt được yếu chỉ.

Từ đấy, Sư tùy nơi đi giáo hóa, chỉ nhằm lợi người. Vật do người cúng Sư đều dùng vào việc Phật. Sư có làm bài văn khuyên người:

Ham danh chuộng lợi
Đều như bọt nước trôi sông
Kết phúc gieo duyên
Ấy là trong lòng hoài bão.

Đến lúc tuổi già, Sư dời về làng Yên Lãng (3) trụ trì chùa Nam Mô, thường dạy đồ chúng rằng: “Các ngươi nên biết, Như Lai thành chánh giác, đối với tất cả nghĩa lý, không còn có chỗ xem xét. Đối với các pháp bình đẳng, không có gì nghi hoặc, không hai, không tướng, không đi, không đứng, không lường, không hạn, xa lìa hai bên, ở nơi trung đạo, vượt khỏi hết thảy văn tự, ngôn thuyết, truyền được thân lượng bằng hết thảy chúng sanh, được thân lượng bằng hết thảy mọi cõi, được thân lượng bằng hết thảy tam giới, được thân lượng bằng hết thảy Phật, được thân bằng hết thảy ngôn ngữ, được thân lượng bằng hết thảy nguyện, được thân lượng bằng hết thảy hành, được thân lượng bằng hết thảy tịch diệt” (4).

Lại nói rằng :
Như Lai thành chánh giác
Hết thảy lượng đẳng thân
Hồi hổ không hồi hổ
Đồng tử mắt sáng thần

Lại nói:
Chân thân thành vạn tượng
Vạn tượng tức chân thân
Cung trăng xanh quế đỏ
Quế đỏ tại cung trăng

Khi sắp thị tịch, Sư gọi môn đồ dạy: “Ta không trở lại đây nữa”. Bấy giờ, hoa trên cây trước chùa tự nhiên rơi rụng, chim sẻ kêu bi thương suốt ba tuần không dứt.

Ngày 18 tháng 3 năm Bính Tý Kiến Gia thứ 6 (1216) Sư mất.

69. THIỀN SƯ THẢO ĐƯỜNG (1)
Chùa Khai Quốc (2), kinh thành Thăng Long [44]

HỆ PHÁI CỦA THIỀN SƯ THẢO ĐƯỜNG
THẾ HỆ THỨ NHẤT (BA NGƯỜI)

70. HOÀNG ĐẾ LÝ THÁNH TÔNG

71. THIỀN SƯ BÁT NHÃ (1)
Chùa Từ Quang, Phúc Khánh (2) Làng Dịch Vương, Trương Canh (3).

72. CƯ SĨ NGỘ XÁ
Làng Bảo Tài (1), Long chương [45]
THẾ HỆ THỨ HAI (BỐN NGƯỜI)

73. THAM CHÁNH NGÔ ÍCH [46]

74. THIỀN SƯ HOÀNG MINH
Làng Yên Lãng (1), Vĩnh Hưng [47].

75. THIỀN SƯ KHÔNG LỘ
Chùa Quang nghiêm, Hải Thanh (1)

76. THIỀN SƯ ĐỊNH GIÁC [48]
THẾ HỆ THỨ BA (BỐN NGƯỜI)

77. THÁI PHÓ ĐỖ VŨ (1) [49]

78. THIỀN SƯ PHẠM ÂM
Làng Thanh Oai (1), An La [50]

79. HOÀNG ĐẾ LÝ ANH TÔNG

80. THIỀN SƯ ĐỖ ĐÔ [51]

THẾ HỆ THỨ TƯ (BỐN NGƯỜI)

81. THIỀN SƯ TRƯƠNG TAM TẠNG [52]

82. THIỀN SƯ CHÂN HUYỀN

83. THÁI PHÓ ĐỖ THƯỜNG (1) [53]
THẾ HỆ THỨ NĂM (BỐN NGƯỜI)

84. THIỀN SƯ HẢI TỊNH (1)

85. HOÀNG ĐẾ LÝ CAO TÔNG

86. XƯỚNG NHI QUẢN GIÁP NGUYỄN THỨC [54]

87. PHỤNG NGỰ PHẠM ĐẲNG
THIỀN UYỂN TẬP ANH XONG QUYỂN HẠ




CHÚ THÍCH

[43] Một tên là Tĩnh Lự
[44] Tuyền tông phái của Tuyết Đậu Minh Giác
[45] Ba vị trên đều kế thừa thiền sư Thảo Đường
[46] Thừa kế Hoàng đế Thánh Tông.
[47] Kế thừa thiền sư Bát Nhã.
[48] Tức Giác Hải, hai vị trên đều kế thừa Ngộ Xá,bản truyện của họ dựa theo Nam tông đồ, đều đặt vào phái Kiến Sơ
[49] Kế thừa Tham Chánh hoặc có nơi nói kế thừa Định Giác.
[50] Kế thừa Thiệu Minh
[51] Hai vị trên thừa kế Không Lộ hoặc có nơi nói kế thừa Định Giác.
[52] Thừa kế Phạm Âm có nơi nói thừa kế Không Lộ, hoặc có nơi nói thừa kế Định Giác.
[53] Ba vị trên đều thừa kế Đỗ Đô hoặc có nơi nói thừa kế thiền sư Tịnh Giới, phái Kiến Sơ. (2)
[54] Ba vị trên đều thừa kế Trương Tam Tạng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/11/2021(Xem: 21209)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 14916)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 15067)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 17737)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 16735)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 21070)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 14586)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 9105)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 24300)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 13411)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]