Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giáo lý nghiệp

08/05/201317:19(Xem: 5691)
Giáo lý nghiệp

Giáo lý Nghiệp

Ban Hoằng Pháp

Giáo lý nghiệp của Phật giáo có thể sử dụng để biện giải về sự sinh tử luân hồi, đa dạng của chúng sanh trong ba cõi, sáu đường. Các khái niệm về nghiệp được hình thành rất sớm, ngay trước khi bộ tộc Aryan xâm chiếm Ấn Ðộ. Nghiệp có thể chi phối con người và vũ trụ. Nghiệp có một sức mạnh luôn khiến con người tạo ra nghiệp mới để rồi chịu nhiều quả báo khác nhau, trói buộc con người vào sinh tử luân hồi.

1. Ý nghĩa

Nghiệp, tiếng Phạn là karma, nghĩa gốc là hành động. Luật nghiệp liên quan mật thiết đến luật nhân quả, những hành động tự mình đã làm sẽ đem lại một kết quả tất yếu. Ví dụ, nếu hành động theo tham, ác, vô minh, điều này có nghĩa là chúng ta đang trồng hạt giống khổ đau. Khi hành động do động cơ trí tuệ, nhân từ, rộng lượng, có nghĩa là chúng ta đang tạo ra nghiệp nhân giàu có, hạnh phúc. Một ví dụ theo nghĩa vật lý để làm sáng tỏ điều này, nếu chúng ta trồng một hạt táo, cây táo lớn lên ra quả táo, không phải là quả xoài. Nếu muốn có xoài, chúng ta phải trồng hạt xoài. Nghiệp là tác ý, khởi lên ý tưởng (ý muốn, dụng tâm). Tác ý của mình là một khuynh hướng, hay động cơ đằng sau hành động. Phật nói rằng nghiệp là tác ý vì nó là động cơ quyết định nghiệp quả. Rõ ràng mỗi khuynh hướng trong tâm của chúng ta là một năng lực đủ mạnh để đưa đến kết quả. Khi hiểu được rằng nghiệp tùy thuộc vào tác ý, chúng ta có thể thấy được những trách nhiệm mà chúng ta phải gánh chịu về hành động của chính mình. Nếu chúng ta không biết được động cơ trong tâm ta, khi ước muốn bất thiện khởi lên, chúng ta có thể hành động sai lầm, tạo ra tương lai khổ đau. Hay chúng ta có thể nói một cách ngắn gọn về nghiệp: “bạn nhận những gì bạn đã tạo ra”, những gì mình gây ra cho người khác, mình sẽ nhận một quả tương ứng như thế trong tương lai. Mỗi cá nhân chịu trách nhiệm trước hành động của chính mình. Kinh Tương Ưng nói: “Chúng sanh làm thiện, ác trong đời này. Đó là sở hữu của người này, và người ấy mang nó theo trong khi tái sanh, nghiệp theo người ấy như một cái bóng”. Giáo lý nghiệp đề cập đến trách nhiệm cá nhân đối với hành động hay việc làm của chính mình, mỗi cá nhân chịu trách nhiệm về chính hành động của mình.

2. Nguồn gốc của nghiệp

Mở đầu phẩm Nghiệp, luận Câu xá khẳng định: “Sự sai biệt của thế gian là do nghiệp sinh” (thế biệt do nghiệp sinh). Bất cứ một kết quả nào cũng có nguyên nhân của nó. Nguyên nhân đưa đẩy con người trong sinh tử đó là nghiệp và hoặc. Hoặc chỉ cho phiền não, tức tâm hư vọng, nhận thức sai lầm sự lý của vũ trụ vạn hữu, sinh tâm đắm trước. Rồi từ sự sai lầm đắm trước đó, khởi lên những hành vi nơi thân, nói năng nơi miệng, đó là nghiệp. Chính nghiệp là nguyên nhân trực tiếp, còn hoặc là trợ duyên gián tiếp. Do vô minh nên chúng sinh tạo nghiệp, nghĩa là do không hiểu biết, thiếu trí tuệ. Theo Phật giáo, nghiệp khởi lên từ chấp thủ, tham muốn. Kinh Tăng Chi nói: “Người ngu từ việc làm nhỏ đến lớn đều do tham, ác, vô minh. Người trí tránh tham, ác, vô minh để đạt trí tuệ và xa lìa tất cả khổ đau”. Phật giáo khẳng định rằng vô minh là nguồn gốc của nghiệp. Vô minh có từ vô thỉ do một niệm điên đảo khởi lên, chúng sanh tạo nghiệp, nghiệp chồng chất lên nhau vừa làm nhân quả cho nhau để tạo nghiệp mới.

3. Tính chất của nghiệp

* Nghiệp có 3 tính: thiện, ác, vô ký. Nhưng chỉ có tính thiện và ác mới là nghiệp, còn vô ký không phải nghiệp. Nghiệp phân chia ra nhiều loại nhưng không ngoài ba thứ thân, ngữ, ý hoặc thiện hoặc ác hoặc trung dung, hữu lậu hay vô lậu.

Mỗi nghiệp có một ảnh hưởng riêng biệt và ảnh hưởng này trở thành nguồn của nghiệp mới. Nó tạo thành chuỗi nhân quả tiếp nối liên tục. Không ai chia sẻ nghiệp của mình. Tỳ kheo Na Tiên hỏi vua Di Lan Đà: "Nếu một người phạm tội và bị phạt, người không phạm tội có thể thay thế anh ta được hay không?". Vua trả lời: "Không thể thay thế được". Na Tiên bảo vua: "Việc làm thiện ác đi theo người làm như bóng theo hình. Khi người đó chết, chỉ có thân thể rã tan, nhưng những gì người đó làm không bị hủy diệt”.

4. Nghiệp và hệ thống giai cấp

Giáo lý nghiệp là một năng lực cải cách đánh mạnh vào hệ thống giai cấp Ấn Độ. Giáo lý nghiệp giải thích rõ được những sự khác nhau về cuộc sống của mỗi cá nhân trong xã hội như giàu nghèo, hạnh phúc khổ đau.

Kinh Kẻ Bần Tiện (Tiểu Bộ) có nói về nghiệp:

Bần tiện không vì sanh,

Phạm chí không vì sanh,

Do hành, thành bần tiện,

Do hành, thành Phạm chí.

Qua đoạn kinh trên, ta thấy Đức Phật phủ nhận hệ thống giai cấp Ấn Độ và quan điểm chủ trương có một thượng đế tạo ra vạn vật. Đức Phật công nhận sự sai khác trong đời hiện tại là do hành động của cá nhân trong quá khứ, không phải ngẫu nhiên sinh ra. Đẳng cấp không thể chen vào phẩm chất đạo đức của cá nhân, vì “chúng ta có thể tìm thấy được một người sinh ra trong quyền quý là kẻ giết người, trộm cắp, nối dối…". Đức Phật khẳng định sinh ra trong quyền quý không thể tạo nên con người tốt; đạo đức chỉ có được qua sự tu dưỡng. Đức Phật chủ trương nghiệp quá khứ khẳng định giai cấp con người trong hiện tại và nghiệp hiện tại khẳng định giai cấp con người trong tương lai. Đức Phật thành lập Tăng đoàn thu nhận mọi đẳng cấp trong xã hội. Luật nghiệp không phân biệt ai. Tất cả những gì mình tạo tác không bao giờ mất, khi nhân duyên gặp nhau chúng ta phải nhận lãnh quả báo. Mình đã làm việc gì đưa đến kết quả tốt hay xấu, tất nhiên mình phải chịu trách nhiệm về việc làm đó.

5. Giáo lý nghiệp và đạo đức học

Giáo lý nghiệp là yếu tố cơ bản của triết học Ấn Độ. Mặc dù một số học giả cho rằng luật nghiệp mang hai ý nghĩa: siêu hình và đạo đức. Nhưng đa số học giả cho rằng bản chất của karma là đạo đức hơn là siêu hình. Karma cho thấy rằng có một trật tự đạo đức trong xã hội. Nếu tóm tắt lại giáo lý nghiệp, chúng ta thấy được yếu tố đạo đức của nó. Luật nghiệp có thể tóm tắt như sau:

1) Hành động tốt luôn luôn tạo ra kết quả tốt và hành động xấu luôn đem lại kết quả xấu.

2) Nghiệp là nguyên nhân của hình thái khác nhau trong cuộc sống.

3) Con người muốn thoát khỏi sinh tử luân hồi trước tiên phải diệt trừ nguyên nhân gốc của hành động. Cội gốc này là vô minh.

4) Chỉ có trí tuệ mới diệt trừ được vô minh.

Thuyết nghiệp phân biệt rõ giữa thiện và ác, công và tội, chúng hình thành nền tảng đạo đức. Nó thiết lập được mối liên quan nhân quả giữa giá trị đạo đức của hành động và kết quả vật lý của chúng. Thuyết nghiệp cũng hệ thống được nguyên tắc đạo đức, thiếu nó xã hội trở nên hỗn loạn. Do năng lực của nghiệp mà chúng sinh tạo tác, nó khiến cho chúng sinh sinh ra trong hình dáng và cảnh giới khác nhau, như trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Sinh ra trong gia đình giàu sang hạnh phúc hoặc nghèo khó bất hạnh. Kinh Na Tiên Tỳ Kheo cũng nói đến nghiệp: nghiệp là nguyên nhân của sự khác nhau giữa chúng sanh. Thông qua nhiều loại nghiệp mà “tất cả chúng sanh không giống nhau, có người yểu mạng, có người thọ mạng, người khỏe, người bệnh, giàu, nghèo, đẹp xấu, mạnh, yếu, ngu, trí”.

6. Kết luận

Thuyết nghiệp (karma) là một trong những thuyết quan trọng nhất của Phật giáo. Nghiệp điều hành cuộc sống của chúng ta. Khi hiểu được nó, sống và hành động theo sự hiểu biết của mình, chúng ta sẽ có được cuộc sống an tịnh. Nếu không sống phù hợp, không hiểu được hậu quả của việc làm, chúng ta sẽ khổ đau. Con người là nghệ nhân của chính mình, thay vì như những họa sĩ tạo những hình tượng, họa phẩm, đối với chúng ta, qua thân, khẩu, ý tạo nên những kinh nghiệm cảm xúc tinh thần, thể xác. Phật dạy, để thoát khỏi nghiệp, chúng ta loại trừ tham, sân, si. Vô tham, vô sân, vô si sẽ giải tỏa được nghiệp. Khổ đau khởi lên từ vô minh, diệt vô minh tất cả chuỗi duyên khởi cũng chấm dứt. Con người phải hiểu rõ tính chất và sự vận hành của nghiệp để làm chủ và thăng hoa bởi "… Các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các lòai hữu tình” (Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt).

Câu hỏi ôn tập

1. Nghiệp là gì? Nghiệp nhân và nghiệp quả liên hệ với nhau như thế nào?

2. Nguồn gốc và tính chất của nghiệp là gì?

3. Con người có thể chuyển hóa nghiệp được không? Bằng cách nào?

----o0o----

Nguồn: chuyenphapluan.com

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/11/2021(Xem: 22073)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 15568)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 15581)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 18244)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 17993)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 21892)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 14930)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 9342)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 24929)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 13655)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]