Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giáo lý nghiệp

08/05/201317:19(Xem: 5286)
Giáo lý nghiệp

Giáo lý Nghiệp

Ban Hoằng Pháp

Giáo lý nghiệp của Phật giáo có thể sử dụng để biện giải về sự sinh tử luân hồi, đa dạng của chúng sanh trong ba cõi, sáu đường. Các khái niệm về nghiệp được hình thành rất sớm, ngay trước khi bộ tộc Aryan xâm chiếm Ấn Ðộ. Nghiệp có thể chi phối con người và vũ trụ. Nghiệp có một sức mạnh luôn khiến con người tạo ra nghiệp mới để rồi chịu nhiều quả báo khác nhau, trói buộc con người vào sinh tử luân hồi.

1. Ý nghĩa

Nghiệp, tiếng Phạn là karma, nghĩa gốc là hành động. Luật nghiệp liên quan mật thiết đến luật nhân quả, những hành động tự mình đã làm sẽ đem lại một kết quả tất yếu. Ví dụ, nếu hành động theo tham, ác, vô minh, điều này có nghĩa là chúng ta đang trồng hạt giống khổ đau. Khi hành động do động cơ trí tuệ, nhân từ, rộng lượng, có nghĩa là chúng ta đang tạo ra nghiệp nhân giàu có, hạnh phúc. Một ví dụ theo nghĩa vật lý để làm sáng tỏ điều này, nếu chúng ta trồng một hạt táo, cây táo lớn lên ra quả táo, không phải là quả xoài. Nếu muốn có xoài, chúng ta phải trồng hạt xoài. Nghiệp là tác ý, khởi lên ý tưởng (ý muốn, dụng tâm). Tác ý của mình là một khuynh hướng, hay động cơ đằng sau hành động. Phật nói rằng nghiệp là tác ý vì nó là động cơ quyết định nghiệp quả. Rõ ràng mỗi khuynh hướng trong tâm của chúng ta là một năng lực đủ mạnh để đưa đến kết quả. Khi hiểu được rằng nghiệp tùy thuộc vào tác ý, chúng ta có thể thấy được những trách nhiệm mà chúng ta phải gánh chịu về hành động của chính mình. Nếu chúng ta không biết được động cơ trong tâm ta, khi ước muốn bất thiện khởi lên, chúng ta có thể hành động sai lầm, tạo ra tương lai khổ đau. Hay chúng ta có thể nói một cách ngắn gọn về nghiệp: “bạn nhận những gì bạn đã tạo ra”, những gì mình gây ra cho người khác, mình sẽ nhận một quả tương ứng như thế trong tương lai. Mỗi cá nhân chịu trách nhiệm trước hành động của chính mình. Kinh Tương Ưng nói: “Chúng sanh làm thiện, ác trong đời này. Đó là sở hữu của người này, và người ấy mang nó theo trong khi tái sanh, nghiệp theo người ấy như một cái bóng”. Giáo lý nghiệp đề cập đến trách nhiệm cá nhân đối với hành động hay việc làm của chính mình, mỗi cá nhân chịu trách nhiệm về chính hành động của mình.

2. Nguồn gốc của nghiệp

Mở đầu phẩm Nghiệp, luận Câu xá khẳng định: “Sự sai biệt của thế gian là do nghiệp sinh” (thế biệt do nghiệp sinh). Bất cứ một kết quả nào cũng có nguyên nhân của nó. Nguyên nhân đưa đẩy con người trong sinh tử đó là nghiệp và hoặc. Hoặc chỉ cho phiền não, tức tâm hư vọng, nhận thức sai lầm sự lý của vũ trụ vạn hữu, sinh tâm đắm trước. Rồi từ sự sai lầm đắm trước đó, khởi lên những hành vi nơi thân, nói năng nơi miệng, đó là nghiệp. Chính nghiệp là nguyên nhân trực tiếp, còn hoặc là trợ duyên gián tiếp. Do vô minh nên chúng sinh tạo nghiệp, nghĩa là do không hiểu biết, thiếu trí tuệ. Theo Phật giáo, nghiệp khởi lên từ chấp thủ, tham muốn. Kinh Tăng Chi nói: “Người ngu từ việc làm nhỏ đến lớn đều do tham, ác, vô minh. Người trí tránh tham, ác, vô minh để đạt trí tuệ và xa lìa tất cả khổ đau”. Phật giáo khẳng định rằng vô minh là nguồn gốc của nghiệp. Vô minh có từ vô thỉ do một niệm điên đảo khởi lên, chúng sanh tạo nghiệp, nghiệp chồng chất lên nhau vừa làm nhân quả cho nhau để tạo nghiệp mới.

3. Tính chất của nghiệp

* Nghiệp có 3 tính: thiện, ác, vô ký. Nhưng chỉ có tính thiện và ác mới là nghiệp, còn vô ký không phải nghiệp. Nghiệp phân chia ra nhiều loại nhưng không ngoài ba thứ thân, ngữ, ý hoặc thiện hoặc ác hoặc trung dung, hữu lậu hay vô lậu.

Mỗi nghiệp có một ảnh hưởng riêng biệt và ảnh hưởng này trở thành nguồn của nghiệp mới. Nó tạo thành chuỗi nhân quả tiếp nối liên tục. Không ai chia sẻ nghiệp của mình. Tỳ kheo Na Tiên hỏi vua Di Lan Đà: "Nếu một người phạm tội và bị phạt, người không phạm tội có thể thay thế anh ta được hay không?". Vua trả lời: "Không thể thay thế được". Na Tiên bảo vua: "Việc làm thiện ác đi theo người làm như bóng theo hình. Khi người đó chết, chỉ có thân thể rã tan, nhưng những gì người đó làm không bị hủy diệt”.

4. Nghiệp và hệ thống giai cấp

Giáo lý nghiệp là một năng lực cải cách đánh mạnh vào hệ thống giai cấp Ấn Độ. Giáo lý nghiệp giải thích rõ được những sự khác nhau về cuộc sống của mỗi cá nhân trong xã hội như giàu nghèo, hạnh phúc khổ đau.

Kinh Kẻ Bần Tiện (Tiểu Bộ) có nói về nghiệp:

Bần tiện không vì sanh,

Phạm chí không vì sanh,

Do hành, thành bần tiện,

Do hành, thành Phạm chí.

Qua đoạn kinh trên, ta thấy Đức Phật phủ nhận hệ thống giai cấp Ấn Độ và quan điểm chủ trương có một thượng đế tạo ra vạn vật. Đức Phật công nhận sự sai khác trong đời hiện tại là do hành động của cá nhân trong quá khứ, không phải ngẫu nhiên sinh ra. Đẳng cấp không thể chen vào phẩm chất đạo đức của cá nhân, vì “chúng ta có thể tìm thấy được một người sinh ra trong quyền quý là kẻ giết người, trộm cắp, nối dối…". Đức Phật khẳng định sinh ra trong quyền quý không thể tạo nên con người tốt; đạo đức chỉ có được qua sự tu dưỡng. Đức Phật chủ trương nghiệp quá khứ khẳng định giai cấp con người trong hiện tại và nghiệp hiện tại khẳng định giai cấp con người trong tương lai. Đức Phật thành lập Tăng đoàn thu nhận mọi đẳng cấp trong xã hội. Luật nghiệp không phân biệt ai. Tất cả những gì mình tạo tác không bao giờ mất, khi nhân duyên gặp nhau chúng ta phải nhận lãnh quả báo. Mình đã làm việc gì đưa đến kết quả tốt hay xấu, tất nhiên mình phải chịu trách nhiệm về việc làm đó.

5. Giáo lý nghiệp và đạo đức học

Giáo lý nghiệp là yếu tố cơ bản của triết học Ấn Độ. Mặc dù một số học giả cho rằng luật nghiệp mang hai ý nghĩa: siêu hình và đạo đức. Nhưng đa số học giả cho rằng bản chất của karma là đạo đức hơn là siêu hình. Karma cho thấy rằng có một trật tự đạo đức trong xã hội. Nếu tóm tắt lại giáo lý nghiệp, chúng ta thấy được yếu tố đạo đức của nó. Luật nghiệp có thể tóm tắt như sau:

1) Hành động tốt luôn luôn tạo ra kết quả tốt và hành động xấu luôn đem lại kết quả xấu.

2) Nghiệp là nguyên nhân của hình thái khác nhau trong cuộc sống.

3) Con người muốn thoát khỏi sinh tử luân hồi trước tiên phải diệt trừ nguyên nhân gốc của hành động. Cội gốc này là vô minh.

4) Chỉ có trí tuệ mới diệt trừ được vô minh.

Thuyết nghiệp phân biệt rõ giữa thiện và ác, công và tội, chúng hình thành nền tảng đạo đức. Nó thiết lập được mối liên quan nhân quả giữa giá trị đạo đức của hành động và kết quả vật lý của chúng. Thuyết nghiệp cũng hệ thống được nguyên tắc đạo đức, thiếu nó xã hội trở nên hỗn loạn. Do năng lực của nghiệp mà chúng sinh tạo tác, nó khiến cho chúng sinh sinh ra trong hình dáng và cảnh giới khác nhau, như trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Sinh ra trong gia đình giàu sang hạnh phúc hoặc nghèo khó bất hạnh. Kinh Na Tiên Tỳ Kheo cũng nói đến nghiệp: nghiệp là nguyên nhân của sự khác nhau giữa chúng sanh. Thông qua nhiều loại nghiệp mà “tất cả chúng sanh không giống nhau, có người yểu mạng, có người thọ mạng, người khỏe, người bệnh, giàu, nghèo, đẹp xấu, mạnh, yếu, ngu, trí”.

6. Kết luận

Thuyết nghiệp (karma) là một trong những thuyết quan trọng nhất của Phật giáo. Nghiệp điều hành cuộc sống của chúng ta. Khi hiểu được nó, sống và hành động theo sự hiểu biết của mình, chúng ta sẽ có được cuộc sống an tịnh. Nếu không sống phù hợp, không hiểu được hậu quả của việc làm, chúng ta sẽ khổ đau. Con người là nghệ nhân của chính mình, thay vì như những họa sĩ tạo những hình tượng, họa phẩm, đối với chúng ta, qua thân, khẩu, ý tạo nên những kinh nghiệm cảm xúc tinh thần, thể xác. Phật dạy, để thoát khỏi nghiệp, chúng ta loại trừ tham, sân, si. Vô tham, vô sân, vô si sẽ giải tỏa được nghiệp. Khổ đau khởi lên từ vô minh, diệt vô minh tất cả chuỗi duyên khởi cũng chấm dứt. Con người phải hiểu rõ tính chất và sự vận hành của nghiệp để làm chủ và thăng hoa bởi "… Các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các lòai hữu tình” (Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt).

Câu hỏi ôn tập

1. Nghiệp là gì? Nghiệp nhân và nghiệp quả liên hệ với nhau như thế nào?

2. Nguồn gốc và tính chất của nghiệp là gì?

3. Con người có thể chuyển hóa nghiệp được không? Bằng cách nào?

----o0o----

Nguồn: chuyenphapluan.com

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/03/2020(Xem: 11896)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
04/01/2020(Xem: 7227)
Bài viết nhan đề “Góp Ý Với Sư Cô Thích Nữ Thanh Tâm” của Cư sĩ Thiện Quả Đào Văn Bình trên mạng Thư Viện Hoa Sen hiển nhiên là nhiều thiện ý, đã đưa ra các nhận định mang tính xây dựng. Từ đó, tất nhiên có phản ứng, và những ý kiến trái nghịch được đưa ra. Trong mọi trường hợp, tất cả những dị kiến nên xem như chuyện bình thường.
04/01/2020(Xem: 8281)
Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên có thiền truyện thuật lại cuộc hỏi đáp giữa Triệu Châu và Nam Tuyền: " Triệu Châu hỏi Nam Tuyền: 'Thế nào là đạo?' Nam Tuyền đáp : ‘Tâm bình thường là đạo’ (Bình Thường Tâm thị Đạo). _’Lại có thể nhằm tiến đến chăng?’ _ ‘Nghĩ nhằm tiến đến là trái’. _ ‘Khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo?’ _ ‘Đạo chẳng thuộc biết và chẳng biết. Biết là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không rỗng rang đâu thể gắng nói phải quấy’. Ngay nơi lời này Triệu Châu ngộ lý, bèn đi thọ giới...." Vậy, thế nào là “Tâm Bình Thường”?
08/12/2019(Xem: 24147)
Kính lễ Phật Pháp Tăng là thể hiện niềm tin sâu xa của Tứ chúng đệ tử đức Phật mỗi ngày đối với Tam bảo. Đệ tử Phật dù tu tập chứng A-la-hán vẫn suốt đời nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng không hề xao lãng. Các vị Bồ tát từ khi phát Bồ đề tâm, tu tập trải qua các địa vị từ Tín, Trú, Hạnh, Hướng, Địa cho đến Đẳng giác không phải chỉ nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng một đời mà đời đời, kiếp kiếp đều nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng. Nhờ sự nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng như vậy, mà Bồ tát không rơi mất hay quên lãng tâm bồ đề, khiến nhập được vào cảnh giới Tịnh độ không thể nghĩ bàn của chư Phật, nhập vào thể tính bất sinh diệt cùng khắp của Pháp và nhập vào bản thể hòa hợp-thanh tịnh, sự lý dung thông vô ngại của Tăng.
08/12/2019(Xem: 23739)
Phật Giáo và Những Dòng Suy Tư (sách pdf)
22/11/2019(Xem: 23109)
Nam mô ADIĐÀ PHẬT , xin Thầy giải thích thắc mắc của con từ lâu : “ Nam mô Tam Châu Cảm Ứng Di Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát “: 1- Tại sao Tam Châu mà không là Tứ Châu ? 2- Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát có phải là Vị Bồ Tát đứng chung với Ngài Tiêu Diện BT ở bàn thờ trước hall mà khi chúng con mới vào chùa QDT dẫn đến và nói : cô chú khi mới vào chùa đến xá chào 2 Vị BT này ( check in ) trước khi ra về cũng đến xá chào ( check out).Xin Thầy nói về tiểu sử của 2 Vị BT ( 2 security officers) mà Phật đã bổ nhiệm xuống cho mỗi chùa .Xin mang ơn Thầy 🙏
08/11/2019(Xem: 13530)
Thanh Từ Thiền Sư, tuyên ngôn như thế, lời vàng đanh thép, lý tưởng cao siêu, muôn đời bất diệt. Phật Giáo Dân Tộc, đồng hành muôn thuở, tuy hai mà một, bền lòng sắc son, nẻo đạo thanh cao, đường đời rộng mở. Ông Dương Ngọc Dũng, mang danh tiến sĩ, học vị giáo sư, nói năng như khỉ, hành vị đáng khinh, giảng đường đại học, kỳ thị tôn giáo, nói xàm nói láo, xúc phạm Phật giáo, bôi nhọ Tăng Ni.
03/09/2019(Xem: 8648)
Hiện tình quốc tế và đất nước đang diễn biến dồn dập hơn bao giờ hết. Khi chính quyền các quốc gia và định chế quốc tế tỏ ra không đủ khả năng để ứng phó trước nguy cơ chiến tranh có thể bộc phát, thì một chủ đề đạo đức tôn giáo cần được thảo luận: Phật giáo có biện minh nào cho chính nghĩa trong cuộc chiến tương lai không?
29/08/2019(Xem: 10732)
Trong thời Đức Bổn Sư Thích Ca còn tại thế, nhất là thời giới luật chưa được chế định, 12 năm đầu tiên sau khi Ngài thành đạo, có nhiều tỷ kheo hay cư sĩ đã liễu ngộ, giải thoát, niết bàn chỉ ngay sau một thời thuyết pháp hay một bài kệ của Tôn Sư. Tại sao họ đặt gánh nặng xuống một cách dễ dàng như vậy? Bởi vì họ đã thấu hiếu tận gốc rễ (liễu ngộ) chân đế, tự tại giải thoát, tịch lặng thường trụ, chẳng động, chẳng khởi, chẳng sanh, chẳng diệt, không đến cũng không đi mà thường sáng soi. Khi họ thấu hiểu được vậy. Kể từ lúc đó, họ tín thọ và sống theo sự hiểu biết chơn chánh này. Họ luôn tuệ tri tất cả các pháp đều huyễn hoặc, vô tự tánh cho nên, họ không chấp thủ một pháp nào và thong dong tự tại trong tất cả các pháp.
22/08/2019(Xem: 10936)
Phát Bồ đề Tâm là một pháp môn tu, nếu không hơn thì bằng chứ không kém một pháp môn nào trong tam tạng, bởi nó nói lên được cứu cánh của việc tu hành. Trong kinh Đại Phương Tiện, Phật dạy A Nan: “Phát Bồ Đề Tâm là pháp môn thù thắng giúp hành giả rút ngắn tiến trình tu tập của mình”. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật lại ân cần nhắc nhở: “Kẻ chỉ quên việc phát Bồ Đề Tâm thì việc làm Phật sự là đang làm ma sự” huống hồ là kẻ tâm không phát, nguyện không lập.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567