Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Tựa của Dịch Giả

15/12/201015:18(Xem: 11432)
Lời Tựa của Dịch Giả

TỔNG QUAN

VỀ NHỮNG CON ĐƯỜNG
CỦA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG
Nguyên tác: A Survey Of The Paths Of Tibetan Buddhism
Tác giả: His Holiness Tenzin Gyatso 14th Dalai Lama of Tibet
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 19/06/2010
Làng Đậu hiệu đính

LỜI TỰA

Những nhà nghiên cứu và Phậttử Phật giáo theo truyền thống Trung Hoa thường nghe nói đến Ngũ Thời Thuyết Giáocủa Thiên Thai TríGiả Đại Sư[1]quabài kệ:

HoaNghiêm tối sơ tam thất nhật

AHàm nhị thập, Phương Đẳng bát

Nhịthập nhị niên Bát Nhã đàm

PhápHoa, Niết-bàn cộng bát niên

Tức là, đức Phật sau khithành đạo đã thuyết giảng Kinh Hoa Nghiêmtrong hai mươi mốt ngày, hai mươi năm tiếp theo là Kinh A Hàm, tám năm kế là KinhPhương Đẳng, rồi hai mươi hai năm KinhBát-nhã, và cuối cùng đức Phật thuyết KinhPháp HoaKinh Niết-bàntrongtám năm.

Nhưng khi học hỏi về Phậtgiáo Tây Tạng, chúng ta thấy chư vị tổ sư Phật giáo Tây Tạng đã nói đến ba thờichuyển pháp luân. Chuyển pháp luân lần thứ nhất đức Phật thuyết về Tứ Diệu Đế,Thập Nhị Nhân Duyên, Ba Mươi Bảy Bồ Đề Đạo Phẩm, … Chuyển pháp luân lần thứ haiđức Phật thuyết về Kinh Bát-nhã, chuyên nói về tính Không. Và lần thứ ba đức Phậtthuyết về những kinh như Giải Thâm Mật,…, và những bộ mật điển [Tantra] là nhữngbộ phận dường như vắng bóng trong Hán Tạng và như lời đức Dalai Lama, “Chuyểnpháp luân lần thứ ba được nối kết với những phương cách khác nhau của việc nângcao tuệ trí thân chứng tính không. Vì thế chúng tôi nghĩ có một liên kết ở đâygiữa kinh điển và mật điển.”

Là người nghiên cứu Phật học,chúng ta phải biết chúng ta muốn gì ở Đạo Phật. Và là người Phật tử thực hànhPhật Pháp, chúng ta phải biết đức Phật muốn chúng ta làm gì. Hay mục tiêu củangười nghiên cứu và thực hành Phật Pháp để làm gì?

Trong Kinh Pháp Hoađức Phật nói rằng, "Mục đích của chư Phật ra đờichỉ vì một việc: Đem Tri kiến Phật chỉ dạy cho chúng sanh tỏ ngộ đấy mà thôi!Chư Phật Như Lai nói pháp cho chúng sanh chỉ vì dạy cho họ một ‘Phật thừa’ chớkhông có hai thừa, ba thừa nào khác. Pháp của chư Phật trong mười phương cũng đềunhư vậy"[2].

Thế nào là khai, thị, ngộ,nhập chúng ta có thể hiểu qua một vi dụ:

Tri viên (người làm vườn) dẫnmột đoàn người đến trước cổng vườn và mở cửa cổng - KHAI

-Tri viên bèn chỉ - đây làhoa lan (thinh văn thừa), này hoa hồng (duyên giác thừa), nọ, xa hơn một chútlà hoa huệ (Bồ-tát thừa), và xa tít đằng kia là hoa sen (Phật thừa) - THỊ

-Đoàn người theo bèn Ồ lên mộttiếng và nói, đúng là trăm nghe không bằng một thấy, nay mới thật sự tường tậnthấy, nghe, hiểu, biết - NGỘ

-Đoàn người theo sự hướng dẫncủa tri viên cùng bước vào vườn dạo cảnh, xem hoa - NHẬP

Thinh văn thừa là thế nào,những pháp môn nào, những điều kiện nào để đạt đến Thinh văn quả?

Duyên giác thừa là thế nào,những pháp môn nào, những điểu kiện nào để đạt đến Duyên giác quả?

Bồ-tát thừa là thế nào, nhữngpháp môn nào, những điều kiện nào để đạt đến Bồ-tát quả?

Phật thừa là thế nào, nhữngpháp môn nào, những điều kiện nào để đạt đến Phật quả?

Mỗi người đến với Đạo Phậtphải tìm hiểu, học hỏi, lựa chọn và thực hành để đạt đến mục tiêu của mình.Chúng phải nói rằng sự lựa chọn ấy có thể theo căn cơ, theo sở thích, hay theonhân duyên. Nhưng chúng ta phải thực sự tìm hiểu, nghiên cứu để lựa chọn lộtrình tu tập, và thực hành một cách nghiêm mật không dời đổi thì mới mong đạt đếnkết quả tối hậu, chứ không thể nay pháp môn này mai pháp môn khác; khi Thinhvăn thừa, lúc Bồ-tát thừa, rồi Phật thừa. Vì muc tiêu hay điểm đến cứ dời đổi,làm thế nào chúng ta có thể đạt đến kết quả cuối cùng khi thật sự chúng ta cũngkhông biết kết quả mình muốn đến là gì?

Đọc “Tổng Quan Những Con Đường[3]Của Phật Giáo Tây Tạng”,chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọicon đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra, sự thực hành Tantra khôngchỉ của tông Gelugpa mà của bốn tông phải chính của Phật giáo Tây Tạng, một conđường mới lạ với các Phật tử Đông Độ, đấy là Phật tri kiến, đấy là Phật thừa,vì mỗi chúng ta đều có khả năng để thành Phật, mà đấy là Phật tính, mà đấy làcơ sở căn bản của mọi Phật tử dù tu theo Tịnh Độ, Thiền Tông hay Mật Tông, chỉcó phương tiện đạt đến là khác nhau. Nhất là Ba Phương Diện Chính Yếu Của Con Đường Tu Tậpdo tổ sư Tsongkhapa[4]đềra mà đấy là cơ sở lập cước của mọi Phật tử dù tu theo Pháp môn nào[5]:

1- Viễn ly: một chí nguyện đạt đến sự giải thoát khỏi vòng sinh tửluân hồi, vì những khổ đau kinh khiếp của nhà lửa tam giới.

2- Bồ đềtâm: để đạt được một sự giải thoát như thế thì phải tạo nên một công đức lớnlao, mà không vì hơn là phát nguyện tu để đạt đến kết quả giải thoát giác ngộ đểcó năng lực hổ trợ tất cả chúng sinh cùng thoát ly sinh tử và chứng quả giác ngộ.

3- Tính Không: chỉ có tuệ trí thực chứng tính Không mới có thể triệttiêu tất cả mọi phiền não vọng tưởng và đạt đến giải thoát giác ngộ.

Và đối với đạo pháp KimCương Thừa, đức Dalai Lama thường nhắc nhở mỗi khi thuyết giảng hay truyền pháplà, nếu quý vị đến đây nhận lễ truyền pháp này để cầu phước báu, hay sự giảithoát cho riêng mình là sai lầm.

Trong Thanh Tịnh Đạo Luận[6]cónói đến ba bậc phát tâm để tu tập:

Bậc hạ để cầu tái sinh hưởng phước báu.

Bậc trung để cầu sự giải thoát sinh tử.

Bậc thượng tu vì tất cả chúng sinh.

Đấy là sự phát tâm lập cướcngay từ lúc đầu, nhưng trong Lộ trình Tiệm Tiến Lamrim cũng nói đến ba tầng bậctương tự như vậy, nhưng đấy là những nấc thang để tiến lần lên sự giác ngộ tốihậu.

Đức Dalai Lama cũng từng nói trong quyển Mật Thừa [Tantra,Vajrayana] Tây Tạng rằng[7]:

Nguyện vọng vị tha hướng đếngiác ngộ tối thượng vì tất cả chúng sanh là nền tảng của sự thực hành của một Bồ-táttrong cả hai Thừa Hoàn Thiện và Kim Cương thừa. Nguyện vọng vị tha được khởi dẫntừ tình thương và bi mẫn, chúng là kết quả của việc nhìn thấy sự khổ đau củavòng sanh tử, phát sanh ý muốn từ bỏ nó, và rồi áp dụng cái hiểu biết này chonhững người khác. NẾU MỘT NGƯỜI KHÔNG MUỐN THOÁT KHỎI VÒNG SANH TỬ, THÌ KHÔNGTHỂ NÀO MONG MUỐN CHO NHỮNG NGƯỜI KHÁC THOÁT KHỎI NÓ. Ý muốn từ bỏ vòng sanh tửnày là chung cho cả Tiểu thừa lẫn Đại thừa và trong Đại thừa thì chung cho cảThừa Hoàn Thiện [Ba-la-mật-đa thừa] và Kim Cương thừa.

Thiền sư Nhất Hạnh cũng nói trong Năng Lực của Cầu Nguyện rằng:

Ba điều cầu nguyện thông thườnglà sức khoẻ, sự thành đạt, và sự hài hoà. Nhưng đối với người xuất gia thì cókhác, điều cầu nguyện trước tiên nhất của người xuất gia là vượt thoát sinh tửvà thực hiện cho được sự an lạc hạnh phúc của pháp giới bản môn ngay trong thếgiới tích môn.

Nguyện mọi người khi đọc đếntác phẩm rất súc tích này để thấy những lời vàng ngọc của đức Dalai Lama để cósự lựa chọn rõ ràng cho lộ trình tu tập của mình để đạt đến kết quả tối hậu,như một mục tiêu của mình khi đến với đạo Phật.

Nguyện đem công đức này dânglên đức Dalai Lama, các bậc thầy tổ, cùng tất cả chúng sinh cùng đạt đến kết quảgiải thoát giác ngộ. Xin cám ơn sự giới thiệu và hiệu đính của đạo hữu Làng Đậu,dù biết rằng khả năng của Tuệ Uyển rất hạn chế, nhưng được sự khuyến khích củaanh, cùng muốn giáo pháp của đức Dalai Lama một trong những bậc Đạo sư vĩ đạinhất của thời đại được lưu bố, như cơn mưa tưới xuống thế gian này nên tác phẩmcó cơ duyên được hiện diện. Rất hổ thẹn vì khả năng, cùng sự thiếu sót củamình.

Nguyện cho mây lành từ ái và mưa pháp bi mẫn che chở và tưới mátkhắp thế gian.

Nam-mô A-di-đà Phật

Tuệ Uyển

[1]TríDi (智顗 538 - 597) được coi là Tổ thứ tư của Thiên Thai tông; đệtử của Huệ Tư, Tổ thứ ba của Thiên Thai tông. Ông tu trên núi Thiên Thai thuộctỉnh Chiết Giang 22 năm cho đến khi mất để nghiên cứu Phật học. Tùy Dưỡng Đế đãban cho ông danh hiệu Trí Giả, nên ông được người đời tôn xưng là Trí Giả đạisư hay Thiên Thai đại sư. Nhiều tài liệu đã phổ biến tên không chính xác củaông là Trí Khải.

”Trí Di”.Wikipedia. <http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C3%AD_Di>. Truy cập23/08/2010

[2]Trích Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Quyển thứ Nhất.Phẩm “Tựa” . Kệ 18.”Kinh Diệu-Pháp Liên Hoa”. Con Đường Thiện Đạo.<http://conduongthiendao.com/PhatDao/KinhPhat/DieuPhapLienHoa/PD-KP-DPLH-QuyenThuNhat-Index.htm>.Truy cập23/08/2010.

[3]Trongbản dịch này từ đây về sau chúng tôi sẽ dùng các thuật ngữ “con đường”, “lộtrình”, “đạo”, hay “đạo pháp” với cùng một ý nghĩa.

[4]Còngọi là Tông-khách-ba, 1357-1419, là một vị Lama lớn của Tây Tạng, nhà cải cáchlừng danh của Phật giáo tại đây. Sư sáng lập tông phái Cách-lỗ [gelugpa], với mộttrong những giáo pháp quan trọng nhất của Phật giáo Tây Tạng là giáo phápLamrim Chenmo [Bồ-đề Đạo Thứ Luận hay Giai Trình Của Giác Ngộ].

Sư sinh ratrong lúc các Tạng kinh tại Tây Tạng đã được biên soạn xong nhưng Sư chủ trươngsoát xét lại toàn bộ kinh điển và tổng kết thành quả của mình trong hai tác phẩmchính: Bồ-đề đạo thứ đệ và Chân ngôn đạo thứ đệ. Sư là người xây dựng nhiềutháp quan trọng tại Tây Tạng như Drepung, Sera và Ganden.

”Tông-khách-ba”.Wikipedia. <http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4ng-kh%C3%A1ch-ba>. Truy cập26/08/2010.

[5]Trích từ Bàigiảng tóm lược của đức Dalai Lama về tác phẩm “Ba Phương Diện Chính Yếu của ConĐường”. Tsongkhapa. Anh ngữ: AlexanderBerzin. Việt Ngữ: Tuệ Uyển.

<http://vnthuquan.net/diendan/(S(hmjvq245xfxxtw45ohjgtibl))/tm.aspx?m=546981>.Truy cập 23/08/2010.

[6]Thanh Tịnh Đạo(p. visuddhi-magga), nghĩa là "con đường dẫn đến thanh tịnh",là tên của một bộ luận cơ bản của Thượng Toạ Bộ (p. theravādin), được Phật Âm(p. buddhaghosa) soạn trong khoảng thế kỉ thứ 5. Thanh Tịnh Đạo trình bày giáolí của Đại Tự (p. mahāvihāra), một trong những trường phái Pali.

Bộ luận này gồmcó 3 phần với 23 chương: chương 1-2 nói về Giới, chương 3-13 nói về Định vàchương 14-23 nói về Huệ. Phần nói về địnhtrình bày rõ các phương pháp và đối tượng quán niệm của Thượng Toạ bộ, khả năngphát triển và thánh quả của các phép thiền định. Trong phần Huệ, Thanh tịnh đạotrình bày giáo lí cơ bản của đạo Phật như Tứ Điệu Đế, Duyên Khởi, Bát Chính Đạo...

“Thanh Tịnh Đạo”. <http://vi.wikipedia.org/wiki/Thanh_t%E1%BB%8Bnh_%C4%91%E1%BA%A1o>.Wikipedia. Truy cập 25/08/2010

[7]Tríchtừ phần III Phụ Lục trả lời phỏng vấn của đức Dalai Lama.

“Tantra inTibet”. Tsongkhapa. Dalai Lama ‘s teaching. Eng. Trans. Jeffrey Hopkins. Viet.Trans. An Phong.

<http://www.quangduc.com/mattong/43matthuataytang3.html>.Truy cập 23/08/2010

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/01/2024(Xem: 1109)
Tỉnh Thức Đối Diện với Bệnh tật và Cái Chết_Tỳ Kheo Analayo_Bình Anson dịch
06/06/2023(Xem: 6351)
Bất cứ trong một tôn giáo, một triết học nào, phần nhân sinh quan vẫn là quan trọng. Chúng ta theo một tôn giáo mà không biết quan niệm nhân sinh trong tôn giáo ấy như thế nào, thực là một khuyết điểm lớn lao. Ở đây, chúng ta chỉ riêng bàn về phần nhân sinh quan Phật giáo để tìm hiểu Phật giáo quan niệm về đời sống con người như thế nào ?
21/05/2023(Xem: 1324)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất. Việc giữ gìn, duy trì sự sống là một điều cơ bản mà bất cứ ai sống trên đời này cũng phải làm để mong mình sống lâu, sống thọ chứ không ai mong mình chết sớm, hay nói đúng hơn là ai cũng sợ cái chết bởi không có một loài động vật có máu huyết nào lại không sợ chết, nhưng sợ chết, không muốn chết thì con người vẫn không thể thoát được cái chết, cho nên thay vì sợ hãi thì chúng ta hãy tập đối diện với quy luật sinh tử như thế nào để vừa giữ được tinh thần lạc quan, vừa duy trì được sự sống của mình một cách trọn vẹn nhất.
22/03/2022(Xem: 3107)
Tôi không ngạc nhiên lắm khi biết dù tác phẩm Chết và Tái sinh ( Death & Rebirth ) đó TT Thích Nguyên Tạng soạn dịch ấn bản lần đầu tiên vào năm 2001 và được tái bản đến 9 lần rồi mà vẫn không đủ cung cấp, cho nên sắp tới Tu Viện Quảng Đức cho tái bản lần thứ 10 để cống hiến bạn đọc gần xa. May mắn thay trong thư viện tí hon của tôi có tác phẩm này được tái bản lần thứ bảy vào mùa Vu Lan báo Hiếu 2007 mà lời ngỏ của tác giả đã đánh động đến con tim của người đọc …qua câu chuyện Luật Sư Brendan Keilar sinh sống tại Melbourne / Australia đã bị bắn chết thật kinh hoàng khi tuổi mới 43 để trả giá cho hành động rất ngưỡng phục ( vì đã can thiệp cứu người).
02/12/2021(Xem: 16357)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
01/08/2021(Xem: 9920)
Chuông mõ gia trì là 2 pháp khí rất quan trọng trong nghi thức hành trì và tu tập mỗi ngày đối với người đệ tử Phật. Tiếng chuông, tiếng mõ rất là quen thuộc gần gũi trong sự hành trì tu tập hằng ngày của người Phật tử, nhất là Phật tử theo truyền thống Bắc tông. Phật tử theo truyền thống Nam tông trước kia thì không có gõ mõ, thỉnh chuông khi tụng kinh, nhưng bây giờ đã có chuông rồi, còn bên Bắc tông thì chuông mõ đã có từ ngàn xưa.
26/06/2021(Xem: 12157)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
01/11/2020(Xem: 16770)
1/Đệ nhất đại nguyện: quốc vô ác đạo. Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy) 2/Đệ nhị đại nguyện: bất đọa ác đạo. Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 3/ Đệ tam đại nguyện: thân chơn kim sắc. Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 4/ Đệ tứ đại nguyện: hình sắc tương đồng. Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 5/Đệ ngũ đại nguyện: túc mạng trí thông. Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)
09/09/2020(Xem: 6832)
Hỏi: Thưa Thầy, luân hồi thật sự được hiểu thế nào trong Phật Giáo, hay vấn đề này bị nhầm lẫn với thuyết tái sinh trong Bà La Môn Giáo và một số tín ngưỡng Tây Phương, vì từ Hán Việt “tái sinh” tiếng Pháp viết là "réincarnation” là sự lặp lại về đơn vị gốc, ví dụ: Người giàu nghèo sang hèn v.v… cứ thế trở lại nguyên gốc. Còn tiếng Phạn saṃsāra là luân hồi là lang thang, trôi nổi. Nếu dùng bật lửa đốt cháy cây nến, điều kiện tạo lửa từ bật lửa sẽ gồm đá đánh lửa, hộp nhựa đựng khí gas, ống thông nhau, ống dẫn ga, bánh xe tạo lực ma sát vào đá lửa, vô số phân tử hóa học trong khí gas, môi trường xung quanh v.v… Trong khi các duyên bắt lửa của ngọn nến chỉ có 2 yếu tố cơ bản gồm thân đèn làm bằng sáp và tim làm bằng vải… Vậy ngọn lửa từ bật lửa có quan hệ gì với ngọn lửa của cây nến? Như thế luân hồi không phải là sự tái sinh nguyên bản mà là tâm lang thang trôi lăn chìm nổi vì tham sân si, không biết tàm quý để rồi chúng sanh cứ mãi bị cái vòng xoay đó làm cho đau khổ?
08/06/2020(Xem: 6815)
Thần đồng 9 tuổi tốt nghiệp đại học, chuẩn bị học tiến sĩ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567