Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lần Chuyển Pháp Luân Thứ Ba

15/12/201015:24(Xem: 10330)
Lần Chuyển Pháp Luân Thứ Ba

TỔNG QUAN

VỀ NHỮNG CON ĐƯỜNG
CỦA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG
Nguyên tác: A Survey Of The Paths Of Tibetan Buddhism
Tác giả: His Holiness Tenzin Gyatso 14th Dalai Lama of Tibet
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 19/06/2010
Làng Đậu hiệu đính

LầnChuyển Pháp Luân Thứ Ba

Lần chuyển pháp luân thứ bachứa đựng nhiều kinh điển khác nhau, quan trọng nhất là kinh điển về Như Lai tạng,mà đấy thật sự là cội nguồn cho tập hợp những bài tán dương của Long Thọ[1], vàcũng là giáo pháp của Di-lặc, Mật Điển TốiThượng[2].Trong kinh điển này, đức Phật khám phá xa hơn những chủ đề mà Ngài đã đề cậptrong lần chuyển pháp luân thứ hai, nhưng không phải từ quan điểm khách quan vềtính Không, bởi vì tính Không đã được giải thích đến trình độ hoàn hảo nhất,cao nhất, và thâm sâu nhất của nó trong lần chuyển pháp luân thứ hai. Điềuriêng biệt về lần chuyển pháp luân thứ ba là đức Phật đã dạy những phương cáchcụ thể của việc nâng cao trí huệ thực chứng về tính Không từ quan điểm của tâmthức chủ quan.

Sự giải thích của đức Phật vềkhái niệm tính Không trong lần chuyển pháp luân thứ hai, mà trong ấy Ngài dạy vềsự thiếu vắng của một sự tồn tại tựtính, là vô cùng thậm thâm cho nhiều hành giả lĩnh hội. Đối với một số người,nói rằng các pháp thiếu vắng một sự tồn tại tự tính dường như bao hàm rằngchúng hoàn toàn không hiện hữu. Cho nên, vì lợi ích của các hành giả này, tronglần chuyển pháp luân thứ ba đức Phật mô tả phẩm chất đối tượng của tính Không vớinhững giải thích khác nhau.

Thí dụ, trong Kinh Giải Thâm Mật[3],Ngài đã phân biệt nhiều loại tính Không bằng việc phân chia tất cả các phápthành ba loại: Các hiện tượng quy gán [danh định, biến kế sở], các hiện tượngphụ thuộc [y tha khởi], và các hiện tượng đã xác lập [viên thành thật][4], vốnlà bản tính Không của chúng. Ngài nói về những loại Không khác nhau của cácpháp khác nhau này, nhiều phương cách thiếu vắng sự tồn tại tự tính này, và cácý nghĩa khác nhau của sự thiếu vắng sự tồn tại tự tính của những pháp khácnhau. Do thế, hai trường phái chính yếu của Đại thừa là Trung Quán [Mādhyamika]và Duy Thức [Cittamātra] phát khởi ở Ấn Độ trên căn bản của những sự trình bàykhác nhau này.

Tiếp theo là Mật thừa, là điềumà tôi cho rằng có một số liên hệ đến lần chuyển pháp luân thứ ba. Từ ngữ‘tantra’ có nghĩa là ‘sự tương tục’. MậtĐiển Du-giàcó tên gọi là TrangNghiêm Kim Cương Tâm Yếu Mật Điểngiải thích rằng giải thích rằng tantra làmột sự tương tục được định nghĩa làsự tương tục của tâm thức. Trên căn bản của tâm thức này, mà với cấp độ phát khởichúng ta phạm phải những hành vi tiêu cực, như một kết quả của những điều đó,chúng ta trải qua vòng luân hồi tàn bạo của sinh tử. Trên con đường tâm linh,cũng trên căn bản của sự tương tục tâm thức mà chúng ta có thể tạo nên những sựcải thiện tinh thần, trải nghiệm những nhận thức cao thượng của đạo pháp vàv.v… Nó cũng là căn bản của sự tương tục tâm thức mà chúng ta có thể đạt đến thểtrạng toàn giác [nhất thiết trí]. Do thế, sự tương tục này của tâm thức luônluôn hiện diện, đấy là ý nghĩa của tantra hay sự tương tục.

Chúng tôi cảm thấy có một cầunối giữa kinh điển và mật điển trong lần chuyển pháp luân thứ hai và lần thứba, bởi vì trong lần thứ hai, đức Phật đã dạy những kinh điển có những cấp độ khácnhau về ý nghĩa. Ý nghĩa hiển lộ [hiển nghĩa] của Kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đalà tính Không, trong khi hàm ý [mậtnghĩa] là những tầng bậc của đạo pháp, được đạt đến như một kết quả của sự thực chứng tính Không[5]. Lầnchuyển pháp luân thứ ba được nối kết với những phương cách khác nhau của việcnâng cao trí huệ thực chứng tính Không. Vì thế chúng tôi nghĩ có một liên kết ởđây giữa kinh điển và mật điển.

tongquan-06
Tổ Nguyệt Xứng

[1]Long Thọ (nāgārjuna),dịch âm là Na-già-át-thụ-na, thếkỷ 1-2, là một trong những luận sư vĩ đại nhất của lịch sử Phật giáo. Sư là ngườisáng lập Trung quán tông (mādhyamika),sống trong thế kỉ thứ 1–2. Có rất nhiều tác phẩm mang danh của Sư nhưng có lẽđược nhiều tác giả khác biên soạn. Sư cũng được xem là Tổ thứ 14 của Thiền tôngẤn Độ.

“Long Thụ“. Wikipedia. <http://vi.wikipedia.org/wiki/Long_Th%E1%BB%A5>.Truy cập 18/02/2009.

[2]Tên Phạn là Ratnagotravibhāgavà bản chú giải (vyākhyā) của nó. Đây là luậnquan trọng về Như Lại Tạng giải thích giáo thuyết Phật giáo về khái niệm Phật tínhđược xem là thuộc về lần chuyểnPháp Luân thứ 3. Phiên bản Phạn ngữ của bản luận này tại Tây Tạng là Uttara-tantra-shastra. Đây là một trongnăm giáo pháp [Ngũ Luận] của ngài Di-Lặc.

“UttaratantraShastra”. Rigpa Shedra. <http://www.rigpawiki.org/index.php?title=Uttaratantra_Shastra>.Truy cập15/08/2010.

[3]Tên Phạn là Saṃdhinirmocana Sūtra. Chữ Giải Thâm Mật có nghĩa là ‘giải thích vềcác bí mật sâu xa’ là bản kinh được phân loại thuộc về Du-già Hành Tông [Duy thức,Yogācāra]. Kinh này được dịch nhiều lần ra tiếng Hán mà phiên bản được tin tưởngnhất là do Ngài Huyền Trang dịch.

"SandhinirmocanaSutra".Wikipedia.<http://en.wikipedia.org/wiki/Sandhinirmocana_Sutra>. Truy cập 26/08/2010.

[4]Còngọi là Tam Tự Tánh hay ba bản tính (trisvabhāva) được giảng giải nhiều trongcác tác phẩm Duy Thức. Các bản tính kể trên có tên Phạn ngữ lần lược làParikalpita, Paratantra, và Pariniṣpanna.

"Three natures". RigpaShedra. <http://www.rigpawiki.org/index.php?title=Three_natures>. Truy cập27/08/2010.

[5]Chẳnghạn có thể xem thêm các chi tiết về hiển nghĩa và mật nghĩa của Tâm Kinh quatác phẩm "Essence of the Heart Sutra: The Dalai Lama's Heart of WisdomTeachings". Dalai Lama. Eng Trans. Thupten Jinpa. WisdomPublications.2005.ISBN 0861712846.

Bản dịch Việt HồngNhư tải về qua địa chỉ <http://nalanda.batnha.org/sach/27-dalai-lama/166-tinh-tuy-bat-nha-tam-kinh-essence-of-the-heart-sutra->.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/01/2024(Xem: 1087)
Tỉnh Thức Đối Diện với Bệnh tật và Cái Chết_Tỳ Kheo Analayo_Bình Anson dịch
06/06/2023(Xem: 6323)
Bất cứ trong một tôn giáo, một triết học nào, phần nhân sinh quan vẫn là quan trọng. Chúng ta theo một tôn giáo mà không biết quan niệm nhân sinh trong tôn giáo ấy như thế nào, thực là một khuyết điểm lớn lao. Ở đây, chúng ta chỉ riêng bàn về phần nhân sinh quan Phật giáo để tìm hiểu Phật giáo quan niệm về đời sống con người như thế nào ?
21/05/2023(Xem: 1299)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất. Việc giữ gìn, duy trì sự sống là một điều cơ bản mà bất cứ ai sống trên đời này cũng phải làm để mong mình sống lâu, sống thọ chứ không ai mong mình chết sớm, hay nói đúng hơn là ai cũng sợ cái chết bởi không có một loài động vật có máu huyết nào lại không sợ chết, nhưng sợ chết, không muốn chết thì con người vẫn không thể thoát được cái chết, cho nên thay vì sợ hãi thì chúng ta hãy tập đối diện với quy luật sinh tử như thế nào để vừa giữ được tinh thần lạc quan, vừa duy trì được sự sống của mình một cách trọn vẹn nhất.
22/03/2022(Xem: 3077)
Tôi không ngạc nhiên lắm khi biết dù tác phẩm Chết và Tái sinh ( Death & Rebirth ) đó TT Thích Nguyên Tạng soạn dịch ấn bản lần đầu tiên vào năm 2001 và được tái bản đến 9 lần rồi mà vẫn không đủ cung cấp, cho nên sắp tới Tu Viện Quảng Đức cho tái bản lần thứ 10 để cống hiến bạn đọc gần xa. May mắn thay trong thư viện tí hon của tôi có tác phẩm này được tái bản lần thứ bảy vào mùa Vu Lan báo Hiếu 2007 mà lời ngỏ của tác giả đã đánh động đến con tim của người đọc …qua câu chuyện Luật Sư Brendan Keilar sinh sống tại Melbourne / Australia đã bị bắn chết thật kinh hoàng khi tuổi mới 43 để trả giá cho hành động rất ngưỡng phục ( vì đã can thiệp cứu người).
02/12/2021(Xem: 16078)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
01/08/2021(Xem: 9787)
Chuông mõ gia trì là 2 pháp khí rất quan trọng trong nghi thức hành trì và tu tập mỗi ngày đối với người đệ tử Phật. Tiếng chuông, tiếng mõ rất là quen thuộc gần gũi trong sự hành trì tu tập hằng ngày của người Phật tử, nhất là Phật tử theo truyền thống Bắc tông. Phật tử theo truyền thống Nam tông trước kia thì không có gõ mõ, thỉnh chuông khi tụng kinh, nhưng bây giờ đã có chuông rồi, còn bên Bắc tông thì chuông mõ đã có từ ngàn xưa.
26/06/2021(Xem: 12047)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
01/11/2020(Xem: 16594)
1/Đệ nhất đại nguyện: quốc vô ác đạo. Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy) 2/Đệ nhị đại nguyện: bất đọa ác đạo. Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 3/ Đệ tam đại nguyện: thân chơn kim sắc. Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 4/ Đệ tứ đại nguyện: hình sắc tương đồng. Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 5/Đệ ngũ đại nguyện: túc mạng trí thông. Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)
09/09/2020(Xem: 6799)
Hỏi: Thưa Thầy, luân hồi thật sự được hiểu thế nào trong Phật Giáo, hay vấn đề này bị nhầm lẫn với thuyết tái sinh trong Bà La Môn Giáo và một số tín ngưỡng Tây Phương, vì từ Hán Việt “tái sinh” tiếng Pháp viết là "réincarnation” là sự lặp lại về đơn vị gốc, ví dụ: Người giàu nghèo sang hèn v.v… cứ thế trở lại nguyên gốc. Còn tiếng Phạn saṃsāra là luân hồi là lang thang, trôi nổi. Nếu dùng bật lửa đốt cháy cây nến, điều kiện tạo lửa từ bật lửa sẽ gồm đá đánh lửa, hộp nhựa đựng khí gas, ống thông nhau, ống dẫn ga, bánh xe tạo lực ma sát vào đá lửa, vô số phân tử hóa học trong khí gas, môi trường xung quanh v.v… Trong khi các duyên bắt lửa của ngọn nến chỉ có 2 yếu tố cơ bản gồm thân đèn làm bằng sáp và tim làm bằng vải… Vậy ngọn lửa từ bật lửa có quan hệ gì với ngọn lửa của cây nến? Như thế luân hồi không phải là sự tái sinh nguyên bản mà là tâm lang thang trôi lăn chìm nổi vì tham sân si, không biết tàm quý để rồi chúng sanh cứ mãi bị cái vòng xoay đó làm cho đau khổ?
08/06/2020(Xem: 6782)
Thần đồng 9 tuổi tốt nghiệp đại học, chuẩn bị học tiến sĩ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567