Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 25

16/04/201312:28(Xem: 9366)
Chương 25

Tâm Lý và Triết học Phật giáo
áp dụng trong đời sống hàng ngày

Nguyên tác: "Abhidhamma in daily life",
Tác giả: Nina Van Gorkom

Ðại đức Thiện Minh dịch ra Việt ngữ
Kỳ Viên Tự xuất bản, 2001
---o0o---

Chương 25

-ooOoo-

1. Lời bạt

Nguyên tác "Abhidhamma in Daily Life" của tác giả Nina Van Gorkom đã được Ðại đức Thiện Minh dịch ra Việt ngữ với nhan đề "Tâm Lý và Triết học Phật giáo áp dụng trong đời sống hàng ngày".

Ðọc qua quyển sách chúng ta mới thấy giá trị của đời sống tinh thần là như thế nào. Quyển sách đã giới thiệu bộ môn giáo lý Abhidhamma (Vi diệu pháp) trong Phật giáo, tác giả đã trình bày sự ứng dụng thực tế của giáo lý Abhidhamma trong cuộc sống hàng ngày thật thú vị.

Bà Rhys Davids nói rất đúng: "Abhidhamma đề cập đến những gì ta tìm thấy bên trong ta, quanh ta, và những gì ta khao khát thành đạt".

Abhidhamma hay Vi diệu pháp đúng là môn Tâm Lý học hay Triết học của Phật giáo. Abhidhamma đã phân tích hai yếu tố nhân sinh quan là thể xác (vật chất) và tâm linh (tinh thần), Abhidhamma cũng nêu rõ mối liên quan giữa hai yếu tố ấy, vật chất ảnh hưởng đến tâm linh, và ngược lại.

Hạnh phúc và đau khổ trong đời sống con người sẽ tùy thuộc vào hai yếu tố đó mà phát sinh, hai yếu tố đó gọi theo từ chuyên môn là Danh (Nàma) và Sắc (Rùpa).

Danh pháp là gồm tâm và sở hữu tâm (Citta, Cetasika); Sắc pháp là nói đến thân tứ đại: đất, nước, lửa, gió (Dhàtu).

Một người hiểu biết, khéo tu luyện nội tâm sẽ làm cho tinh thần trong sáng an trú với tư tưởng thuần thiện, thanh lọc tư duy ô nhiễm bất thiện như tham, sân, si, hoài nghi, ngã mạn... Từ thái độ ấy sẽ tạo cho người này một nghị lực, một sức mạnh tâm linh, và sẽ khiến cho có cuộc sống lành mạnh và an lạc.

Tác giả quyển sách đã mô tả cặn kẻ bằng kiến thức Phật pháp và kinh nghiệm tu tập của mình và dịch giả đã khéo léo chuyển món ăn tinh thần này đến chúng ta. Giá trị quyển sách không thể phủ nhận được.

Mong sao tất cả mọi người sẽ cảm nhận được giá trị đó và sẽ ứng dụng giáo lý Abhidhamma trong cuộc sống hàng ngày.

Chùa Siêu Lý (Vĩnh Long)
Mùa Ðông Canh thìn
Tỳ khưu Giác Giới


2. Phụ Lục - Thuật ngữ Pali-Việt

Abhidhamma

vi diệu pháp, thắng pháp

Abhidhammattha Sangaha

thắng pháp tập yếu luận

Abhinna

thắng trí

Adosa

vô sân

Ahetuka cittas

tâm vô nhân

Àkàsànancàyatana

không vô biên xứ

Àkincannàyatana

vô sở hữu xứ

Akusala

bất thiện

Alobha

vô tham

Amoha

vô sân

Anàgàmì

A na hàm (bất lai)

Anattà

vô ngã

Anicca

vô thường

Anuloma

thuận thứ

Anusaya

tùy miên

Anupàdisesa nibbàna

vô dư Níp bàn

Àpo-dhàtu

thủy giới

Appanà

an chỉ định

Arahat

bậc A La Hán

Àrammana

cảnh đối tượng, cảnh tượng

Ariyan

bậc thánh

Arùpa-bhùmi

cõi vô sắc giới

Arùpa-brahma bhùmi

cõi Phạm thiên vô sắc giới

Arùpa-jhàna

thiền vô sắc

Asankhàrika

không cần nhắc bảo

Asankhata dhamma

pháp vô vi

Àsavas

lậu hoặc

Asobhana

tịnh hảo

Asubha

bất tịnh

Asura

a tu la

Atìta-bhavanga

hộ kiếp vừa qua

Atthasàlinì

chú giải bộ Pháp Tụ

Àvajjana

hướng môn

Avijjà

vô minh

Ayoniso manasikàra

ghi nhớ lý tác ý

Bhàvanà

tu tiến, tham thiền

Bhavanga

hộ kiếp

Bhavanga calana

hộ kiếp rúng động

Bhavangupaccheda

hộ kiếp dứt dòng

Bhikkhu

vị Tỳ khưu

Bhikkhunì

vị Tỳ khưu ni

Bhùmi

cõi

Brahma-vihàra

phạm trú

Buddha

đức Phật

Buddhaghosa

giác âm

Cakkhu

mắt, nhãn

Cakkhu-dhàtu

nhãn giới

Cakkhu-dvàra

nhãn môn

Cakkhu-dvàravajjana-citta

tâm khán nhãn môn

Cakkhupasàda rùpa

sắc thần kinh nhãn

Cakkhu-vinnàna

nhãn thức

Cetanà

tư, cố ý

Cetasika

sở hữu tâm

Citta

tâm

Cuti-citta

tâm tử

Dàna

bố thí

Dassana-kicca

chức năng thấy

Dhamma

pháp

Dhamma-dhàtu

pháp giới

Dhammàrammana

cảnh pháp

Dhammasanganì

bộ Pháp Tụ

Dhàtukathà

bộ chất ngữ

Ditthi

tà kiến

Ditthigata sampayutta

tương ưng tà kiến

Domanassa

thọ ưu

Dosa

sân

Dosa-mùla-citta

tâm sân căn

Dukkha

khổ

Dukkha vedanà

thọ khổ

Dvàra

môn

Dvi-panca-vinnàna

ngũ song thức

Ekaggatà

nhất hành tâm

Gantha

phước

Ghàna-dhàtu

tỷ giới

Ghànapasàda rùpa

sắc thần kinh tỷ

Ghàna-vinnàna

tỷ thức

Ghàyana-kicca

chức năng ngửi

Gotrabhù

chuyển tánh

Hadaya-vatthu

ý vật

Hasituppàda-citta

tâm sinh tiếu

Hetu

nhân

Indrìya

căn, quyền

Issà

tật đố

Jàti

sanh, đặc tính, chủng loại

Javana-citta

tốc lực tâm

Jhàna

thiền

Jhànanga

những chi thiền

Jinhà-dhàtu

thiệt giới

Jivhàpasàda rùpa

thần kinh thiệt

Jivhà-vinnàna

thiệt thức

Kàma

dục lạc

Kàma-bhùmi

cõi dục

Kàmacchandha

dục tham

Kàma-sobhana citta

tâm tịnh hảo dục giới

Kàmàvacara cittas

tâm dục giới

Kamma

nghiệp

Kamma patha

nghiệp đạo

Karunà

bi mẫn

Kasina

đề mục

Kàya

biến xứ

Kàya dhàtu

thân giới

Kàyapasàda rùpa

sắc thần kinh thân

Kàya-vinnatti

thân biểu tri

Kàya-vinnàna

thân thức

Khandha

ngũ uẩn

Kicca

chức năng, phận sự

Kilesa

phiền não

Kiriya citta

tâm tố

Kukkucca

hối hận

Kusala citta

tâm thiện

Kusala kamma

nghiệp thiện

Kusala

thiện

Lobha

tham

Lobha-mùla-citta

tâm tham căn

Lokiya citta

tâm hiệp thế

Lokuttara citta

tâm siêu thế

Lokuttara dhammas

pháp siêu thế

Macchariya

lậu, xan tham

Magga

đạo

Magga-citta

tâm đạo

Mahà-bhùta-rùpas

sắc tứ đại

Mahà kiriyacitta

tâm đại tố

Mahà-kusalacitta

tâm đại thiện

Mahà-vipàkacitta

tâm đại quả

Manàyatana

ý xứ

Mano

ý

Mano-dhàtu

ý giới

Mano-dvàràvajjana-citta

tâm khán ý môn

Mano-dvàra-vìthi-cittas

lộ trình tâm ý môn

Mano-vinnàna-dhàtu

nhãn thức giới

Màra

Ma vương

Mettà

từ

Middha

thụy miên

Moha

si mê

Moha-mùla-cittas

tâm căn si

Mudità

tùy hỉ

Nàma

danh pháp

Natthika ditthi

vô hữu kiến

N’eva-sannà-n’àsannàyatana

phi tưởng phi phi tưởng xứ

Nibbàna

Níp bàn

Nimitta

dấu, ấn chứng

Nirodha-samàpatti

Thiền diệt

Nìvarana

triền cái

Nana

trí

Ojà

thực tố, chất dinh dưỡng

Olàrika rùpas

sắc thô

Pacceka Buddha

Phật độc giác

Patibhàganimitta

quang tướng

Patigha

sân hận

Patthàna

bộ đại xứ

Patisandhi citta

tâm tái tục

Pàli

tiếng Pàli

Pancadvàràvajjana-citta

tâm khán ngũ môn

Pancavinnàna

ngũ thức

Panna

trí tuệø, huệ

Pannatti

chế định

Paramattha dhamma

pháp chơn đế

Parikamma

tâm chuẩn bị

Pasàda-rùpas

sắc thần kinh

Peta

ngạ quỉ, người quá vãng

Phala-citta

tâm quả

Phassa

xúc

Photthabbàrammana

cảnh xúc

Phusana kicca

chức năng xúc chạm

Pìti

Pháp hỷ (phỉ lạc)

Puggalapannatti

Bộ nhân chế định

Puthujjana

kẻ phàm phu

Ràhula

ra hầu la

Rasàrammana

cảnh vị

Rùpàrammana

cảnh sắc

Rùpa

sắc pháp

Rùpa-brahma plane or

cõi Phạm thiên sắc

Rùpa-bhùmi

cõi sắc giới

Rùpa-jhàna

thiền sắc giới

Rùpa-khandha

sắc uẩn

Rùpàvacara cittas

tâm sắc giới

Saddàrammana

cảnh thinh

Saddhà

niềm tin

Sahagata

câu hành

Sahetuka

hữu nhân

Sakadàgàmì

nhất lai

Samàdhi

định

Samatha

thiền chỉ, tu tịnh

Sammà

chân chánh

Sampaticchana-citta

tâm tiếp thu

Sampayutta

tương ưng

Sangha

tăng già

Sankhata
Sankhàra dhamma

pháp hữu vi

Sannà

tưởng

Sannàkkhandha

tưởng uẩn

Santìrana-citta

tâm quan sát

Sankhàra dhamma

pháp hành

Sankhàrakkhandha

hành uẩn

Sàriputta

Xá Lợi Phất

Sasankhàrika

cần được nhắc bảo

Sati

niệm, chú niệm

Satipatthàna sutta

kinh niệm xứ

Satipatthàna

niệm xứ

Sa-upàdisesa nibbàna

hữu dư Níp bàn

Sàyana-kicca

chức năng đếm

Savana-kicca

chức năng nghe

Sìla

giới

Sìlabbatupàdàna

giới cấm thủ

Sobhana hetus

nhân tịnh hảo

Sobhana kiriyacittas

những tâm tố tịnh hảo

Sobhana (citta & cetasika)

tịnh hảo (tâm và sở hữu tâm)

Somanassa

thọ hỉ

Sota-dhàtu

nhĩ giới

Sota-dvàràvajjana-citta

tâm khán nhĩ môn

Sota-dvàra-vìthi-cittas

lộ trình tâm khán nhĩ môn

Sotàpanna

bậc Tu đà hườn

Soto-vinnàna

nhĩ thức

Sukha

lạc

Sukha-vedanà

thọ lạc

Sukhuma

tế, vi tế

Sutta

kinh điển

Suttanta

tạng kinh

Tadàrammana-citta

tâm na cảnh

Tathàgata

Như Lai

Tatramajjhattatà

trung tánh (xả)

Tejo-dhàtu

hỏa giới

Theravàda

Phật giáo Trưởng lão thuyết,
Phật Giáo Nam tông

Thìna

hôn trầm

Tipitaka

Tam Tạng

Uddhacca

trạo cử, phóng dật

Udàna

kinh Phật tự thuyết

Upacàra

cận hành

Upacàra-samàdhi

cận hành định

Upàdà-rùpa

sắc y sinh

Upàdàna

thủ, chấp thủ

Upàdànakkhandhas

thủ uẩn

Upekkhà

xả

Vacìvinnatti

khẩu biểu tri

Vatthu

vật

Vàyo-dhàtu

phong giới

Vedanà

thọ

Vedanàkkhandha

thọ uẩn

Vibhanga

Bộ Phân tích

Vicàra

tứ

Vicikicchà

hoài nghi

Vinaya

tạng luật

Vinnàna

thức

Vinnàna-dhàtu

thức giới

Vinnànakkhandha

thức uẩn

Vinnànancàyatana

thức vô biên xứ

Vipàkacitta

tâm quả

Vipassanà

thiền quán (tu Tuệ)

Vippayutta

bất tương ưng

Viriya

tinh tấn

Visaịkàra dhamma

pháp vô vi

Visuddhimagga

Thanh tịnh đạo

Vitakka

tầm

Vìthi-cittas

lộ trình tâm

Vìthimutta-cittas

ngoài lộ trình tâm

Votthapana-citta

tâm phán đoán

Vyàpàda

sân hận

Yamaka

bộ Song đối

Yoniso manasikàra

như lý tác ý

---o0o---

Source : BuddhaSasana Home Page

---o0o---

Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/01/2017(Xem: 9904)
Hiểu tư tưởng Duyên Khởi thì hiểu Triết học Phật giáo. Thuyết “duyên khởi” là một nền tảng triết lý rất quan trọng trong lời giáo huấn của Đức Phật. Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã căn cứ vào lẽ sanh khởi của dukkha (những điều không hài lòng, căng thẳng, khổ đau…) mà nói lên sự liên hệ nhân quả của nó gồm có 12 thứ/ 12 chi. Ngài lập ra thuyết “duyên Khởi”.
22/12/2016(Xem: 29252)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 15736)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 10048)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
27/08/2016(Xem: 7408)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
27/08/2016(Xem: 5403)
Định nghĩa. Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : bãi biển, bờ đê, quán cà phê, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa, chánh điện, trong chợ, trên đoạn đường xa lộ, bãi đậu xe (parking), v.v…Trên mặt của toàn thể vũ trụ đều có vô số vạn hữu (cỏ, cây, muôn thú), và con người, gọi chung chư pháp. Kinh văn Phật nói: “Thật tướng của vạn hữu (chư pháp) là vô ngã “. Q
31/05/2016(Xem: 13273)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
28/05/2016(Xem: 12990)
Phật Tánh đó là Tánh Giác Ngộ, Tánh Phật, Bổn Tánh Lành, Mầm Lương Thiện trong mọi loài chúng sinh. Cũng gọi là Như Lai Tánh, đối nghĩa với chúng sanh tánh. Kinh Phạm võng: Tất cả chúnh sanh đều có sẵn Tánh Giác Ngộ nơi mình (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh). Nhờ có Tánh Giác Ngộ ấy, bổn tánh lành ấy chúng sanh công nhận và thấu đạt lý nhân quả, hiểu cái thể tự nhiên của mình đồng với Phật. Phật Tánh nơi ta luôn tiến chớ không phải thối, tích lũy chớ không phải tiêu vong, nó tiến tới mãi, nó khiến cho cảnh trần càng tươi đẹp, càng thuần tịnh, nó đưa lần mọi vật đến gần cái tuyệt đẹp, tuyệt cao, tuyệt diệu, tuyệt trong sáng thánh thiện. Mỗi loài đều có nơi mình Phật Tánh, dầu cho loài nào có thấp hèn tới đâu cũng có khả năng thành Phật. Không trừ loài nào, không một ai mà không có khả năng thành Phật.
30/04/2016(Xem: 17617)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 35915)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]