Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 13

16/04/201312:14(Xem: 9872)
Chương 13

Tâm Lý và Triết học Phật giáo
áp dụng trong đời sống hàng ngày

Nguyên tác: "Abhidhamma in daily life",
Tác giả: Nina Van Gorkom

Ðại đức Thiện Minh dịch ra Việt ngữ
Kỳ Viên Tự xuất bản, 2001
---o0o---

Chương 13

Các chức năng của Tâm

-ooOoo-

Mỗi tâm thực hiện chức năng riêng của nó; không có tâm nào phát sanh mà không có thực hiện một chức năng. Ví dụ, thấy và nghe là những chức năng do tâm thực hiện. Chúng ta không quen quan tâm đến sự thấy và sự nghe giống như những nhiệm vụ, bởi vì chúng ta hay cố chấp bản ngã. Nếu chúng muốn biết nhiều về những thứ tâm, chúng ta nên học các nhiệm vụ khác nhau của chúng.

Chức năng tâm đầu tiên trong kiếp sống thực hiện là chức năng tâm tái tục. Tâm tái tục được tiếp nối bởi tâm hộ kiếp. Chức năng tâm hộ kiếp là chức năng thứ hai của tâm. Tâm hộ kiếp duy trì sự liên tục trong kiếp sống. Chừng nào con người vẫn còn sống thì tâm hộ kiếp sinh và diệt trong thời gian không có tiến trình tâm tâm ngũ căn hoặc ý môn. Tâm hộ kiếp phát sanh giữa các tiến trình tâm khác nhau mà nó biết cảnh xuyên qua một trong sáu môn. Ví dụ thấy và suy nghĩ về điều mình làm phát sanh trong giữa những tiến trình tâm khác nhau và phải có những tâm hộ kiếp ở giữa những tiến trình khác nhau này.

Khi sắc pháp tiếp xúc một trong các căn thì dòng tâm hộ kiếp bị gián đoạn; có một ít tâm hộ kiếp nữa sanh và diệt, và rồi tâm khán ngũ môn phát sanh. Tâm khán ngũ môn là tâm đầu tiên trong tiến trình tâm biết cảnh sắc mà nó tiếp xúc với một trong các căn.

Tâm khán ngũ môn thực hiện chức năng chú ý đến cảnh mà nó tiếp xúc một trong năm căn; nó chú ý đến cảnh xuyên qua căn môn đó. Tâm khán ngũ môn là tâm tố vô nhân.

Thanh tịnh đạo (XIV, 107) có đề cập đến sự liên quan tâm ngũ song thức (ý giới):

Ở đây, ý giới có đặc tính làm tiền đạo cho nhãn thức... và nhận biết cảnh sắc... chức năng của nó là hướng tâm đến cảnh. Nó được biểu hiện như sự tiếp xúc của cảnh sắc.. . Nguyên nhân gần của nó là làm gián đoạn dòng hộ kiếp. Nó chỉ tương ưng với xả.

Tâm khán ngũ môn là 'tiền đạo" vì nó phát sanh trước năm thức (nhãn , nhĩ...). Khi khán ngũ môn hướng tâm đến cảnh thì nó đã tiếp xúc với nhãn căn rồi, nó hướng tâm xuyên qua nhãn môn và được gọi là tâm khán nhãn môn. Khi khán ngũ môn hướng tâm đến cảnh thì nó đã tiếp xúc với nhĩ căn và gọi là tâm kháng nhĩ môn. Tâm khán ngũ môn được đặt tên sau căn môn nhờ đó mà nó hướng đến cảnh. Tâm khán ngũ môn phát sanh nhiều lần trong một ngày, nhưng chúng ta không quan tâm đến nó. Bất cứ khi nào có tâm nhãn thức thì tâm khán nhãn môn đã hướng tâm đến cảnh sắc mà nó đã tiếp xúc với nhãn căn, và nó đã diệt. Bất cứ khi nào có tâm nhĩ thức hoặc một trong năm thức khác, tâm khán ngũ môn đã hướng đến cảnh và đã diệt rồi.

Tâm khán ngũ môn được tiếp nối do bởi những tâm khác của tiến trình căn môn mà nó biết cùng một cảnh đó. Khi tiến trình đó chấm dứt , cảnh được biết xuyên qua ý môn. Ðầu tiên có tâm hộ kiếp và sau đó tâm khán ý môn thực hiện chức năng của sự hướng đến xuyên qua ý môn.

Như vậy có hai loại tâm thực hiện chức năng của sự hướng đến (Àvajjanakicca) đó là: tâm khán ngũ môn hướng đến cảnh qua một trong năm căn và tâm khán ý môn hướng đến cảnh xuyên qua ý môn. Tâm khán ý môn là tâm tố vô nhân; nó không câu hành với những nhân bất thiện hoặc những nhân tịnh hảo. Sau khi hướng đến cảnh nó được theo sau bởi những tâm thiện hoặc những tâm bất thiện.

Khi cảnh sắc tiếp xúc với nhãn căn thì tâm khán nhãn môn hướng đến cảnh sắc xuyên qua nhãn môn. Khi tâm khán nhãn môn đã diệt nó được tiếp nối bởi tâm nhãn thức. Chức năng của sự thấy (Dassana kicca) là do tâm nhãn thức thực hiện. Thấy là kết quả của nghiệp thiện và nghiệp bất thiện. Chúng ta tái sanh là để tiếp nhận những kết quả của những hành động của chúng ta: chúng ta thấy, nghe và biết các cảnh qua các căn khác.

Tâm thực hiện chức năng của nhãn thức chỉ là thấy cảnh sắc. Tâm này chưa có thích hoặc không thích, nó là một tâm quả vô nhân. Nó cũng không suy nghĩ về cảnh. Nếu người ta không phát huy chánh kiến thì người ấy không nhận thấy rằng tâm mà chỉ thấy cảnh sắc là một sự thật khác với tâm mà thích hoặc không thích cảnh sắc và khác với tâm mà chú ý đến hình thức và đặc điểm. Bởi vì vô minh và tà kiến, chúng ta không hiểu rõ sự vô thường của tâm diệt ngay khi nó phát sanh và nó được nối tiếp bởi tâm khác mà nó là một sự thật khác nữa.

Có hai loại tâm mà có thể thực hiện chức năng c?a nhãn thức: là tâm quả bất thiện và tâm quả thiện.

Khi âm thanh tiếp xúc với nhĩ căn thì tâm khán nhĩ môn sanh và diệt, tâm nhĩ thức phát sanh. Chức năng nghe (Savanakicca) là một chức năng khác của tâm. Nhĩ thức là tâm quả vô nhân. Hai loại tâm có thể thực hiện chức năng nghe là tâm quả bất thiện và tâm quả thiện.

Một chức năng của tâm khác nữa là chức năng ngửi (Ghàyanakicca). Cả hai loại tâm quả vô nhân có thể thực hiện chức năng này: là tâm quả bất thiện và tâm quả thiện.

Có hai loại tâm quả vô nhân có thể thực hiện chức năng nếm (Sayanakicca): là quả bất thiện và quả thiện. Ví dụ, khi tâm thực hiện chức năng nếm hương vị ngọt hoặc mặn, đơn thuần nó chỉ biết hương vị đó, nhưng không biết tên gọi của hương vị này. Sau đó tâm mới biết tên thường gọi của hương vị.

Chức năng biết cảnh xúc qua thân căn (Phusanakicca) là chức năng tâm khác nữa. Khi cảnh tiếp xúc với thân căn thì tâm khán ngũ môn hướng đến cảnh xuyên qua thân căn. Nó được tiếp nối bởi thân thức mà có thể thực hiện chức năng biết cảnh xúc qua thân căn. Có hai loại tâm mà có thể thực hiện chức năng này: một là quả bất thiện, hai là quả thiện. Những cảnh do tâm thân thức biết là các loại sắc sau đây:

Ðất (được biết như cứng hoặc mền)
Lửa (được biết như nóng hoặc lạnh)
Gió ( được biết như rung động và lay chuyển).

Những đối tượng trên được biết do bởi thân căn mà thường gọi là sắc pháp. Sắc pháp này có công năng tiếp nhận những cảm xúc toàn thân thể, ngoại trừ những thành phần nào không có cảm giác.

Do đó, tóm lại những chức năng do tâm thực hiện là năm thức:

Chức năng thấy
Chức năng nghe
Chức năng ngửi
Chức năng nếm
Chức năng đụng

Thấy, nghe, ngửi, nếm và đụng là những chức năng khác nhau, không phải do bản ngã thực hiện mà do tâm thức tạo tác. Những tâm này phát sanh vì những điều kiện thích ứng của chúng. Ðể cảnh tĩnh mọi người về định lý này, Ðức Phật giải thích rằng, làm thế nào tâm biết cảnh qua năm căn và qua ý môn. Ngài chỉ cho thấy những điều kiện khác nhau về sự phát sanh của tâm thức và sự vô thường của những nhân duyên này. Vì những nhân duyên phát sanh của tâm thức thì vô thường nên chúng không thường hằng.

Chúng ta xem trong Tương Ưng Bộ Kinh (IV, Salàyatanavagga, Tương ưng Xứ, Năm mươi thứ hai, chương IV, 93, cả hai II) Ðức Phật dạy cho chư Tỳ khưu rằng:

Này các Tỳ khưu, do duyên cả hai nên thức hiện hữu. Và này các Tỳ khưu thế nào là do duyên cả hai nên thức hiện hữu?

Do duyên mắt và các sắc, phát sanh nhãn thức. Mắt là vô thường, biến hoại, trạng thái luôn thay đổi. Cho nên cảnh sắc cũng như vậy. Do đó cả hai này là biến động, tiêu tan, vô thường, biến hoại, trạng thái luôn thay đổi.

Nhãn thức là vô thường, biến hoại, trạng thái luôn thay đổi. Do nhân duyên nào nhãn thức phát sanh, nhân duyên đó cũng vô thường ,biến hoại, trạng thái luôn thay đổi. Nhãn thức này phát sanh từ một nhân duyên vô thường, làm sao nó thường hằng được.

Bây giờ sự họp hội, tụ tập, hòa hợp với nhau của ba pháp này ,này các Tỳ khưu đây gọi là nhãn xúc. Nhãn xúc thì vô thường, biến hoại, trạng thái luôn thay đổi . Do nhân duyên nào phát sanh nhãn xúc, nhân duyên đó cũng vô thường... Nhãn xúc này phát sanh từ một nhân duyên vô thường, làm sao nó thường hằng được?

Này các Tỳ khưu, do cảm xúc nên có cảm thọ, do cảm xúc nên có hay biết, do cảm xúc nên có nhận thức. Như vậy các pháp này cũng biến động, tiêu tan, vô thường, biến hoại. Trạng thái của chúng luôn luôn thay đổi...

Các căn còn lại thì cũng tương tự như vậy.

Trong tiến trình tâm, năm thức được nối tiếp bởi tâm tiếp thu. Tâm này thực hiện chức năng tiếp nhận cảnh, nó tiếp nhận cảnh sau khi năm thức đã diệt. Tâm tiếp thu là tâm quả vô nhân. Có hai loại tâm thực hiện chức năng này: một là tâm quả thiện, hai là tâm quả bất thiện.

Nghiệp không chỉ sản sanh tâm ngũ song thức và tâm tiếp thu, nó còn sản sanh ra tâm quan sát mà tâm quan sát nối tiếp tâm tiếp thu. Tâm quan sát thực hiện chức năng quan sát cảnh trong tiến trình ngũ căn; nó là tâm quả vô nhân. Chức năng quan sát cảnh là chức năng của tâm khác nữa, nó khác biệt với thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng qua thân căn và sự tiếp thu.

Như chúng ta thấy (trong chương 9), có ba loại tâm quan sát mà có thể thực hiện chức năng quan sát:

1- Tâm quan sát quả bất thiện, câu hành thọ xả
2- Tâm quan sát quả thiện, câu hành thọ xả
3- Tâm quan sát quả thiện, câu hành thọ hỷ (khi cảnh cực kỳ tốt)

Tâm quan sát được nối tiếp bởi tâm phán đoán. Phán đoán là một chức năng tâm khác nữa; tâm phán đoán xác định cảnh trong tiến trình căn môn. Sau khi xác định cảnh nó được nối tiếp bởi tâm thiện hoặc tâm bất thiện. Tâm phán đoán không phải là quả, không phải là thiện cũng không phải là bất thiện nhưng nó là một tâm tố vô nhân. Những nhân duyên về sự phát sanh của nó thì khác với nhân đuyên đối với tâm quan sát mà nó do nghiệp sản sanh. Như chúng ta thấy (trong chương 9), Tâm thực hiện chức năng phán đoán là tâm tố vô nhân mà được người ta phân loại như tâm khán ý môn. Tâm khán ý môn thực hiện hai chức năng: trong tiến trình ý môn nó thực hiện chức năng hướng đến cảnh qua ý môn , trong tiến trình căn môn nó thực hiện chức năng phán đoán và như vậy nó được gọi là tâm phán đoán.

Tâm biết cảnh lạc hoặc cảnh bất lạc qua các căn và ý môn. Nếu người ta tích trử nhiều tâm tham và tâm sân, tâm tham căn có thể phát sanh khi cảnh lạc và những tâm sân căn có thể phát sanh khi cảnh bất lạc. Như vậy là có "phi như lý tác y" đối với cảnh. Những tâm này phát sanh vì những nhân duyên, chúng không có bản ngã và vượt ra ngoài sự kiểm soát.

Chúng ta nghĩ rằng trong tiến trình tâm, tâm quả bất thiện biết cảnh bất lạc cần phải theo sau bởi tâm bất thiện, vì chính chúng ta bị các cảnh điều khiển khi chúng ta thấy. Tuy nhiên, nếu chúng ta có "như lý tác ý" thì chúng ta không có sân hận đối với các cảnh bất lạc. Tâm thiện và tâm bất thiện phát sanh vì những nhân duyên mà nó thì hoàn toàn khác biệt với những nhân duyên cho những tâm quả. Tâm quả bất thiện và tâm quả thiện là kết quả của nghiệp. Chúng ta muốn kiểm soát tâm quả của chúng ta, nhưng điều này thì không thể được. Khi đúng thời tâm quả phát sanh, chúng ta không thể nào ngăn chận nó được. Chúng ta nên biết rằng đời sống của chúng ta chỉ là danh và sắc, chúng phát sanh vì nhân duyên và rồi diệt ngay. Nếu chúng ta thật sự hiểu rõ tâm quả: nó chỉ là một khoảnh khắc tâm diệt ngay khi nó phát sanh, chúng ta sẽ ít sân hận đối với những cảnh bất lạc khi chúng ta thấy.

Người ta có thể tự hỏi, có cần thiết để biết chi tiết về tâm và chức năng của chúng không. Chỉ biết tâm thiện và tâm bất thiện thì chưa đủ? Ngoài tâm thiện và tâm bất thiện chúng ta cũng nên biết về các loại tâm khác nữa mà chúng thực hiện những chức năng khác trong tiến trình của tâm thức và chúng phát sanh vì nhân duyên khác. Như vậy chúng ta sẽ hiểu rằng không có bản ngã mà nó có thể trực tiếp phát sanh của những tâm đặc biệt ở những hoàn cảnh đặc biệt. Không có bản ngã mà nó có thể chọn lựa để có những tâm thiện. Ngưới ta có những sự huân tập khác nhau và do đó, khi chính cảnh hiện diện thì sẽ có tiến trình tâm nhận biết nó, sự phát sanh của tâm thiện và tâm bất thiện theo sự huân tập của chúng ta. Ví dụ, khi người ta ngửi mùi thực phẩm ngon, một số người có thể có tâm bất thiện trái lại một số người khác có tâm thiện. Người mà dính mắc vào thức ăn thì có thể có tâm tham căn. Trong trường hợp người có tâm bố thí, tâm thiện có thể phát sanh khi người đó ngửi thức ăn; người ấy có thể muốn cúng dường thức ăn đến chư Tỳ khưu. Một trường hợp khác nữa, ví dụ, chúng ta có tâm thiện tương ưng với trí tuệ nhận biết mùi vị, nó chỉ như là một loại sắc pháp, không có điều gì khác, chúng vô thường và không có bản ngã.

Qua sự nghiên cứu về Giáo pháp và vượt trên tất cả qua sự phát huy "tuệ quán", chánh kiến về những sự thật, có thể trợ duyên cho những tâm thiện và như vậy là có "như lý tác ý" đối với cảnh. Bất kể là cảnh lạc hay bất lạc, trong tiến trình căn môn tâm phân đoán có thể được nối tiếp bởi tâm thiện và trong tiến trình ý môn sau khi tâm khán ý môn hướng đến cảnh, nó có thể được nối tiếp bởi tâm thiện. Nếu có thể "như lý tác ý" ở thời điểm này sẽ có nhiều nhân duyên cho "như lý tác ý" trong tương lai.

Tâm thiện và tâm bất thiện thì nhất định phát sanh bởi vì chúng ta đã huân tập cả thiện lẫn bất thiện. Ngưới ta có khuynh hướng đổ lỗi cho thế gian về sự phát sanh phiền não của họ bởi vì họ không biết rằng phiền não được huân tập trong tâm; phiền não không ở trong những đối tượng chung quanh của chính chúng ta. Người ta có thể muốn không có sáu môn để không có phiền não. Tuy nhiên, con đường duy nhất để đoạn trừ phiền não là: biết những sự thật mà chúng xuất hiện xuyên qua sáu môn. Chúng ta xem trong Tương Ưng Bộ Kinh(IV, Salàyatanavagga, Tương ưng Xứ, Năm mươi thứ tư, chương III, 194, ngọn lửa cháy) Ðức Phật dạy cho chu Tỳ khưu rằng:

Này các Tỳ khưu, ta sẽ giảng cho các ông một pháp môn lửa cháy, một pháp môn chánh pháp. Hãy lắng nghe. Và này các Tỳ khưu, pháp môn đó là gì?

Thật tốt đẹp, này các Tỳ khưu, nếu nhãn căn bị hủy hoại với một cây kim bằng sắt nung đỏ, cháy hừng, rực sáng, cháy mạnh mẽ. Như vậy không có chấp tướng riêng, tướng chung đối với các sắc do mắt nhận biết. Thức có thể an trú, kiên định, bị trói buộc bởi vị ngọt, tướng chung hay tướng riêng. Trong thời điểm ấy, nếu thân hoại mạng chung, thời sự việc nầy sẽ xảy ra: sẽ tái sanh vào một trong hai cõi này, địa ngục hoặc bàng sanh. Thấy được nguy hiểm này, náy các Tỳ khưu, Như Lai tuyên thuyết như vậy.

Này các thầy Tỳ khưu, thật là tốt đẹp, nếu nhĩ căn bị hủy hoại với một cái dùi bằng sắt nung đỏ... nếu tỷ căn bị hủy hoại với một cái kềm sắc bén hừng cháy... nếu thiệt căn bị hủy hoại với một con dao sắc bén hừng cháy ... nếu thân căn bị hủy hoại với một cây kiếm sắc bén hừng cháy...

Này các Tỳ khưu, do thấy sự nguy hiểm này Như Lai tuyên thuyết như vầy, thật tốt đẹp hơn khi nằm ngủ. Việc nằm ngủ Như Lai nói rằng là sự rỗng không đối với các loài có sinh mạng. Như Lai nói rằng là không có kết quả đối vối các loài có mạng sống. Như Lai nói rằng là u mê đối với các loài có mạng sống. Vì rằng (nếu ngủ), người ta không có suy nghĩ những điều có thể bị tư duy chinh phục để người đó có thể phá hòa hợp của Tăng già.

Ở đây, này các Tỳ khưu, vị thánh thinh văn suy nghĩ như sau: "Hãy dừng lại, chớ để nhãn căn bị hủy hoại với một cây kim bằng sắc nung đỏ, hừng cháy, rực sáng, cháy mạnh mẽ. Vị ấy tác ý như sau: mắt là vô thường, các sắc là vô thường, nhãn thức là vô thường, nhãn xúc là vô thường. Phàm duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ, cảm thọ ấy là vô thường..."

Thấy như vậy, vị thánh thinh văn nhàm chán đối vối mắt, cảnh sắc, nhãn thức, nhãn xúc. Vị ấy nhàm chán đối với lạc , bất lạc và thọ xả phát sanh đối với nhãn xúc... Do nhàm chán vị ấy ly tham. Do ly tham vị ấy được giải thoát. Trong sự giải thoát vị ấy nhận biết rằng: "sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa"

Này các thầy Tỳ khưu, đây là bài thuyết pháp về ngọn lửa cháy.

Bài kinh này nhắc nhở chúng ta rằng hãy chánh niệm mọi lúc, khi chúng ta thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng qua các căn và ý môn. Tất cả những điều trên là những chức năng do bởi các tâm khác nhau thực hiện mà chúng thì không tồn tại.

CÂU HỎI:

1/- Tâm gì trong tiến trình căn môn xác định cảnh trước khi nó được nối tiếp bởi tâm bất thiện hoặc tâm thiện? Tâm này câu hành với nhân hay vô nhân?
2/- Tâm nào trong tiến trình ý môn đi trước tâm thiện hoặc tâm bất thiện phát sanh trong tiến trình đó? Chức năng của nó là gì?
3/- Tâm gì trong tiến trình ý môn đi trước tâm thiện hoặc tâm bất thiện là tâm đầu tiên trong tiến trình đó biết cảnh?
4/- Tâm này có thể câu hành với trí tuệ không?
5/- Âm thanh được biết xuyên qua nhĩ môn và ý môn. Âm thanh đã diệt khi nó được biết qua ý môn không?
6/- Có bao nhiêu loại tâm có thể thực hiện chức năng hướng đến cảnh?

---o0o---

Source : BuddhaSasana Home Page

---o0o---

Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/01/2017(Xem: 9904)
Hiểu tư tưởng Duyên Khởi thì hiểu Triết học Phật giáo. Thuyết “duyên khởi” là một nền tảng triết lý rất quan trọng trong lời giáo huấn của Đức Phật. Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã căn cứ vào lẽ sanh khởi của dukkha (những điều không hài lòng, căng thẳng, khổ đau…) mà nói lên sự liên hệ nhân quả của nó gồm có 12 thứ/ 12 chi. Ngài lập ra thuyết “duyên Khởi”.
22/12/2016(Xem: 29252)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 15736)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 10048)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
27/08/2016(Xem: 7408)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
27/08/2016(Xem: 5403)
Định nghĩa. Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : bãi biển, bờ đê, quán cà phê, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa, chánh điện, trong chợ, trên đoạn đường xa lộ, bãi đậu xe (parking), v.v…Trên mặt của toàn thể vũ trụ đều có vô số vạn hữu (cỏ, cây, muôn thú), và con người, gọi chung chư pháp. Kinh văn Phật nói: “Thật tướng của vạn hữu (chư pháp) là vô ngã “. Q
31/05/2016(Xem: 13273)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
28/05/2016(Xem: 12990)
Phật Tánh đó là Tánh Giác Ngộ, Tánh Phật, Bổn Tánh Lành, Mầm Lương Thiện trong mọi loài chúng sinh. Cũng gọi là Như Lai Tánh, đối nghĩa với chúng sanh tánh. Kinh Phạm võng: Tất cả chúnh sanh đều có sẵn Tánh Giác Ngộ nơi mình (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh). Nhờ có Tánh Giác Ngộ ấy, bổn tánh lành ấy chúng sanh công nhận và thấu đạt lý nhân quả, hiểu cái thể tự nhiên của mình đồng với Phật. Phật Tánh nơi ta luôn tiến chớ không phải thối, tích lũy chớ không phải tiêu vong, nó tiến tới mãi, nó khiến cho cảnh trần càng tươi đẹp, càng thuần tịnh, nó đưa lần mọi vật đến gần cái tuyệt đẹp, tuyệt cao, tuyệt diệu, tuyệt trong sáng thánh thiện. Mỗi loài đều có nơi mình Phật Tánh, dầu cho loài nào có thấp hèn tới đâu cũng có khả năng thành Phật. Không trừ loài nào, không một ai mà không có khả năng thành Phật.
30/04/2016(Xem: 17617)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 35915)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]