Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 9

16/04/201312:10(Xem: 9372)
Chương 9

Tâm Lý và Triết học Phật giáo
áp dụng trong đời sống hàng ngày

Nguyên tác: "Abhidhamma in daily life",
Tác giả: Nina Van Gorkom

Ðại đức Thiện Minh dịch ra Việt ngữ
Kỳ Viên Tự xuất bản, 2001
---o0o---

Chương 9

Tâm Vô Nhân không được biết
trong đời sống hàng ngày

-ooOoo-

Có mười tám loại tâm vô nhân (tâm phát sanh không có nguyên nhân). Mười lăm loại tâm vô nhân là quả. Như chúng ta đã biết, trong mười lăm loại tâm vô nhân có mười loại là Ngũ song thức (năm đôi). Chúng là:

Nhãn thức
Nhĩ thức
Tỷ thức
Thiệt thức
Thân thức

Mỗi cặp của những thức này nó là quả bất thiện hoặc quả thiện.

Nhãn thức là kết quả của nghiệp. Khi nó là kết quả của hành động bất thiện, nhãn thức là tâm quả bất thiện mà biết cảnh bất lạc; khi nó là kết quả của hành động thiện, nó là tâm quả thiện biết cảnh lạc. Chức năng của nhãn thức là biết cảnh sắc.

Nghiệp không chỉ sản sinh loại tâm quả nhãn thức mà còn sản sinh hai loại tâm quả nối tiếp nhãn thức nữa. Nhãn thức được tiếp nối do tâm quả khác mà nó tiếp nhận cảnh. Tâm này vẫn có cùng cảnh như nhãn thức, được gọi là Tâm tiếp thu (Sampaticchana citta). Nhãn thức biết cảnh sắc chưa diệt khi nhãn thức diệt, vì nó là sắc; sắc không diệt nhanh bằng danh pháp. Khi một cảnh được người ta nhận biết xuyên qua một trong sáu căn, đơn thuần không chỉ có một tâm biết cảnh đó mà còn có cả lộ trình tâm tiếp nối nhau để biết cùng cảnh.

Nếu nhãn thức là tâm quả bất thiện, thì tâm tiếp thu cũng là tâm quả bất thiện, nếu nhãn thức là tâm quả thiện, tâm tiếp thu cũng là tâm quả thiện. Như vậy, có hai loại tâm tiếp thu: một là quả bất thiện, hai là quả thiện. Tâm tiếp thu là quả vô nhân; không có nhân bất thiện hay nhân tịnh hảo phát sanh cùng với loại tâm này. Tâm tiếp thu tiếp nối tâm nhãn thức, nhãn thức làm duyên cho sự phát sanh tâm tiếp thu. Tương tự, khi nhĩ thức nghe âm thanh, tâm tiếp thu nối tiếp tâm nhĩ thức. Các căn khác thì cũng giống như vậy.

Tâm tiếp thu thường xuyên phát sanh với thọ xả, bất kể tâm tiếp thu là quả bất thiện hay quả thiện.

Khi tâm tiếp thu diệt, lộ trình tâm biết cảnh chưa kết thúc, tâm tiếp thu được tiếp nối do bởi tâm quả vô nhân khác mà nó vẫn là kết quả của nghiệp. Loại tâm này được gọi là tâm quan sát (Santìrana citta). Tâm quan sát thẩm tra hay quan sát cảnh do một trong ngũ song thức, và được tiếp nhận do tâm tiếp thu. Tâm quan sát tiếp nối tâm tiếp thu trong một lộ trình tâm biết cảnh xuyên qua một trong năm căn; Tâm tiếp thu làm duyên cho sự phát sanh của tâm quan sát. Khi nhãn thức phát sanh, tâm tiếp thu tiếp nối tâm nhãn thức và tâm quan sát tiếp nối tâm tiếp thu trong lộ trình tâm mà nó biết cảnh sắc. Tương tự, tâm quan sát phát sanh trong lộ trình tâm biết cảnh xuyên qua một trong các căn khác, nó tiếp nối tâm tiếp thu. Chúng ta không thể chọn lựa dù tâm quan sát có phát sanh hay không, vì nhân duyên những tâm nầy phát sanh, chúng vượt ra ngoài sự kiểm soát.

Tâm quan sát cũng là tâm quả vô nhân. Khi cảnh bất lạc, tâm quan sát là quả bất thiện và nó câu hành với thọ xả. Ðối với tâm quan sát là quả thiện, có hai loại. Khi cảnh lạc, nhưng không quá lạc, tâm quan sát câu hành với thọ xả. Khi cảnh quá lạc, tâm quan sát câu hành với thọ hỷ. Như vậy có tất cả ba loại tâm quan sát. Nó tùy thuộc nhân duyên mà loại tâm quan sát phát sanh.

Như vậy có mười lăm loại tâm quả vô nhân:

10 tâm là ngũ song thức.
1 tâm tiếp thu quả bất thiện.
1 tâm tiếp thu quả thiện .
1 tâm quan sát quả bất thiện câu hành thọ xả.
1 tâm quan sát quả thiện câu hành thọ xả.
1 tâm quan sát quả thiện câu hành thọ hỷ.

Bảy loại tâm quả vô nhân là quả bất thiện và tám loại là quả thiện, vì có hai loại tâm quan sát là quả thiện.

Như chúng ta đã biết, có tất cả mười tám loại tâm vô nhân. Trong mưới tám loại tâm vô nhân này có mười lăm loại là tâm quả và ba loại là tâm tố. Tâm tố thì khác biệt với tâm bất thiện, tâm thiện và tâm quả. Tâm bất thiện và tâm thiện là nhân; chúng có thể tạo những hành động bất thiện và những hành động thiện mà nó có khả năng trổ quả tương xứng. Tâm quả là kết quả của nghiệp thiện và nghiệp bất thiện. Tâm tố vừa không phải là nhân vừa không phải là quả.

Tâm khán ngũ môn là một loại tâm tố vô nhân (Panca dvàràvajjanacitta) [1]. Khi một cảnh tiếp xúc một trong năm căn, thì phải có tâm chú ý hoặc hướng đến cảnh xuyên qua căn đó. Khi cảnh sắc tiếp xúc nhãn căn, phải có tâm khán ngũ môn để chú ý cảnh sắc xuyên qua nhãn môn, tâm khán nhãn môn (Cakkhu dvàràvajjanacitta) trước khi có tâm nhãn thức. Khi cảnh thinh tiếp xúc nhĩ căn, tâm khán nhĩ môn (Sota dvàràvajjanacitta) phải biết cảnh thinh xuyên qua nhĩ môn trước khi có tâm nhĩ thức. Tâm khán ngũ môn đơn thuần hướng đến cảnh mà nó tiếp xúc một trong năm căn. Ví dụ nó hướng đến cảnh sắc hoặc cảnh thinh thì nó tiếp xúc vào căn thích hợp, nhưng nó không thấy hoặc nghe. Tâm khán ngũ môn là tâm tố vô nhân, nó phát sanh mà không có nguyên nhân; khi tâm này phát sanh, nó chưa phải là tâm thiện hay bất thiện. Tâm khán ngũ môn được tiếp nối bởi một trong những tâm ngũ song thức mà gọi là tâm quả. Trong lộ trình tâm biết cảnh, mỗi tâm phát sanh thì có chức năng riêng của nó.

Tâm biết một cảnh xuyên qua một trong năm căn mà nó không biết bất cứ điều gì khác ngoại trừ cảnh đó. Ví dụ, khi người ta đang đọc sách, tâm chỉ biết cảnh sắc mà nó không biết ý nghĩa của từng chữ. Sau khi lộ trình nhãn môn đã được hoàn tất, cảnh sắc được biết xuyên qua ý môn và như vậy có thể có lộ trình tâm ý môn khác mà biết ý nghĩa nào mình đã viết và tư duy về nó. Như vậy lộ trình tâm biết một cảnh xuyên qua một trong năm căn và lộ trình tâm biết một cảnh xuyên qua ý môn.

Loại tâm tố vô nhân tiếp theo là tâm khán ý môn (Mano dvàràvajjanacitta). Loại tâm này phát sanh cả tiến trình căn môn lẫn ý môn , nhưng nó làm hai chức năng khác nhau tùy theo nó phát sanh trong hai loại tiến trình đó, như chúng ta thấy.

Khi một cảnh tiếp xúc trong các căn môn, tâm khán ngũ môn hướng đến cảnh, một trong những tâm ngũ song thức biết cảnh đó. Tâm tiếp thu tiếp nhận cảnh và tâm quan sát thẩm định nó. Lộ trình tâm biết cảnh xuyên qua căn môn đó. Tuy nhiên nó chưa kết thúc. Tâm quan sát được nối tiếp bởi một tâm tố vô nhân mà nó biết cảnh xuyên qua căn môn và "xác định" cảnh đó gọi là tâm phân đoán (Votthapana) [2]. Thật sự nó có cùng một loại tâm khán ý môn, nhưng khi nó phát sanh trong tiến trình căn môn, nó có thể được gọi là tâm phân đoán, vì nó thực hiện chức năng phân đoán cảnh theo tiến trình căn môn. Tâm phân đoán (sau khi nó phân đoán cảnh) được tâm bất thiện và tâm thiện [3] theo sau. Chính tâm phân đoán vừa không phải là tâm bất thiện vừa không phải là tâm thiện; nó là tâm tố. Tâm này phân đoán cảnh, nó thì vô ngã. Không có bản ngã có thể xác định sẽ có tâm bất thiện hay tâm thiện không. Tâm bất thiện hoặc tâm thiện tiếp nối tâm phân đoán, chúng thì cũng vô ngã; tùy thuộc vào hành động bất thiện hay thiện của người mà tâm phân đoán sẽ được tiếp nối bởi tâm bất thiện hay tâm thiện.

Những tâm sanh trong tiến trình căn môn mà biết một trần cảnh như màu sắc hoặc âm thanh chúng sanh và diệt nối tiếp lẫn nhau. Khi lộ trình tâm căn môn đã chấm dứt, những tâm đó đã nhận biết trần cảnh cũng đã diệt. Những tâm sanh và diệt rất nhanh và ngay khi tiến trình ngũ môn chấm dứt, một lộ trình tâm ý môn lại bắt đầu, mà nó biết trần cảnh vừa diệt. Mặc dù đã diệt, nhưng nó có thể là đối tượng của tâm phát sanh trong tiến trình ý môn. Tâm khán ý môn là tâm đầu tiên của tiến trình ý môn, nó nhận biết cảnh vừa diệt. Trong lộ trình ngũ môn, tâm khán ngũ môn biết cảnh chưa diệt. Ví dụ, nó biết cảnh sắc hoặc cảnh thinh mà nó vẫn còn tiếp xúc căn môn thích hợp. Tuy nhiên, tâm khán ý môn phát sanh trong tiến trình ý môn, chúng có thể biết một đối tượng đã diệt rồi. Ví dụ nó hướng đến biết cảnh sắc qua nhãn môn, hoặc biết cảnh thinh qua nhĩ môn. Sau khi tâm khán ý môn đã biết đối tượng thì tâm thiện và tâm bất thiện (trong trường hợp không phải là vị A la hán) đã nối tiếp mà nó biết cùng cảnh đó. Tâm khán ý môn vừa không phải là tâm bất thiện vừa không phải là tâm thiện, nó là tâm tố. Tùy thuộc vào hành động của một người mà loại tâm khán ý môn được nối tiếp là tâm bất thiện hay tâm thiện. Tất cả những loại tâm phát sanh vì nhân duyên; chúng thì vô ngã.

Tâm tố vô nhân được phân loại như tâm khán ý môn có thể giữ hai chức năng: trong lộ ý môn nó giữ chức năng hướng đến, là hướng đến cảnh qua ý môn; trong lộ ngũ môn tâm này giữ chức năng phán đoán cảnh. Tâm phán đoán cảnh trong lộ ngũ môn có thể được gọi là tâm phán đoán [4].

Khi cảnh thinh tiếp xúc nhĩ căn nó có thể được biết do những tâm phát sanh trong lộ nhĩ môn, và sau đó nó được biết do những tâm phát sanh trong lộ ý môn. Tiến trình tâm biết một cảnh xuyên qua một trong năm căn và ý môn nó nối tiếp nhau nhiều lần.

Trong tiến trình tâm xuyên qua một trong năm căn thì làm thế nào có tâm bất thiện và tâm thiện, ngay khi người ta chưa biết cảnh đó là gì? Có thể có tâm bất thiện và thiện trước khi người ta biết cảnh đó là gì. Chúng ta có thể so sánh tình huống này với trường hợp của một trẻ con, trẻ con thì thích cảnh sắc rực rỡ như bong bóng trước khi nó biết rằng đây là bong bóng. Chúng ta có thể thích hoặc không thích một cảnh trước khi chúng ta biết cảnh đó là gì.

Thêm một tâm tố vô nhân nữa là tiếu sinh tâm (Hasituppàda citta). Chỉ có chư vị A la hán mới có loại tâm này. Khi các ngài mĩm cười tâm sinh tiếu này có thể phát sanh ở thời điểm đó. Người ta có thể mĩm cười bằng nhiều loại tâm khác nhau. Khi phàm nhân mĩm cười, nụ cười đó có thể thực hiện do tâm bất thiện hoặc tâm thiện. Chư vị A la hán không còn bất cứ loại phiền não nào; các ngài không còn tâm bất thiện. Các ngài không có tâm thiện mà cũng không còn tạo nghiệp nữa. Thay vì có tâm thiện, các ngài có tâm tố tịnh hảo câu hành với nhân tịnh hảo. Chư vị A la hán không có cười lớn tiếng, vì các ngài không có biểu hiện sự vui đùa; các ngài chỉ mĩm cười. Khi các ngài mĩm cười, nụ cười đó có thể được biểu lộ do tâm tố tịnh hảo hoặc tâm tố vô nhân mà được gọi là tiếu sinh tâm.

Do đó, tổng cộng mười tám tâm vô nhân, mười lăm tâm là tâm quả vô nhân và ba tâm là tâm tố vô nhân. Ba tâm tố vô nhân là:

1. Tâm khán ngũ môn
2. Tâm khán ý môn
3. Tâm sinh tiếu.

Những ai chưa phải là bậc A la hán chỉ có thể có mười bảy loại tâm vô nhân, mười bảy loại tâm vô nhân này phát sanh trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Khi một cảnh tiếp xúc một trong năm căn, tâm khán ngũ môn hướng đến cảnh xuyên qua căn môn đó. Tâm này được theo sau bởi ngũ song thức, tâm tiếp thu, tâm quan sát, tâm phân đoán và rồi tâm bất thiện hoặc tâm thiện. Khi tiến trình tâm ngũ môn đã diệt, cảnh đó được biết do ý môn. Tâm khán ý môn chú ý đến cảnh xuyên qua ý môn và rồi nó được theo sau bởi tâm bất thiện hoặc tâm thiện. Nếu tâm bất thiện sanh thì người ta có "phi như lý tác đối với cảnh", và nếu tâm thiện phát sanh thì người ta có như lý tác ý đối với cảnh. Ví dụ khi thấy những côn trùng chắc chắn chúng ta không thích và như vậy tâm sân căn phát sanh. Như vậy là phi như lý tác ý. Tâm sân quá mạnh đến nỗi người ta muốn giết hại côn trùng; cho nên tạo nghiệp bất thiện. Nếu người ta nhận thức rằng sát sanh là tâm bất thiện và xa lánh sát sanh là tâm thiện và như vậy là có như lý tác ý. Nếu người ta học giáo pháp và tu tập thiền quán, đó là điều kiện thường có nhiều như lý tác ý hơn. Khi chúng ta biết danh và sắc chúng xuất hiện xuyên qua một trong năm căn và ý môn, thì lúc đó chúng ta có như lý tác ý.

Khi có hai người trong cùng một hoàn cảnh, một người có thể có phi như lý tác ý và người kia có thể có như lý tác ý, tùy thuộc vào nghiệp lực của họ. Chúng ta xem trong Tương Ưng Bộ Kinh (IV, Sanàyatana, Tương Ưng Sáu Xứ, Năm mươi kinh thứ tư, 202, dục lậu ) về vị Tỳ khưu, sau khi có phi như lý tác ý vị ấy biết cảnh xuyên qua một trong sáu môn, và một vị Tỳ khưu khác có như lý tác ý. Chúng ta xem ngài Moggallànadạy chư vị Tỳ khưu:

Này chư hiền giả, tôi sẽ dạy cho quí vị phương pháp nhiễm dục lậu và phương pháp không nhiễm dục lậu...

Này chư hiền giả, thế nào là nhiễm dục lậu?

Này chư hiền giả, ở đây một vị Tỳ khưu, mắt thấy sắc, tham đắm sắc khả ái, chán ghét sắc không khả ái, sống không có chánh niệm, và tâm ích kỷ. Vị ấy không biết rõ như thật, tâm giải thoát và tuệ giải thoát, chính ở đây các ác bất thiện phát sanh chưa được đoạn trừ.

Này chư hiền giả, vị Tỳ khưu này được gọi là nhiễm "dục lậu sau khi mắt thấy sắc, tai, mũi, lưỡi. . .tâm biết cảnh pháp." Khi vị Tỳ khưu an trú như vậy, này chư hiền giả, này chư hiền giả, nếu Ma vương [5] đến với vị ấy bằng mắt, Ma vương nắm lấy cơ hội. Nếu ma vương đến vị ấy bằng lưỡi...bằng tâm, Ma vương nắm lấy đối tượng, nắm lấy cơ hội...

Này chư hiền giả, sống như vậy, cảnh sắc chinh phục vị Tỳ khưu, vị Tỳ khưu không chinh phục cảnh sắc. Cảnh thinh, hương, vị, xúc, và cảnh pháp chinh phục vị Tỳ khưu, không phải vị Tỳ khưu chinh phục cảnh pháp. Này chư hiền giả, vị Tỳ khưu này được gọi là "người bị sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp chinh phục". Vị ấy bị các ác bất thiện pháp, nhiễm ô chinh phục, dẫn đến tái sanh, đầy sợ hãi, quả đau khổ, tương lai của vị đó tái sanh, già và chết. Như vậy này chư hiền giả, vị ấy bị nhiễm dục lậu.

Và này chư hiền giả, thế nào là người không bị nhiễm dục lậu?

Ở đây, này chư hiền giả, một vị Tỳ khưu mắt thấy sắc, không tham đắm sắc khả ái, không chán ghét sắc không khả ái...

Lưỡi nếm vị... ý biết cảnh pháp, vị ấy không tham đắm pháp khả ái, không ghét bỏ pháp không khả ái, nhưng sống an trú chánh niệm, với tâm vô lượng. Cho nên vị ấy biết rõ như thật, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chính nơi đây, các ác bất thiện pháp phát sanh được đoạn trừ hoàn toàn.

Này chư hiền giả, vị Tỳ khưu này được gọi là không bị nhiễm dục lậu sau khi mắt thấy sắc...không nhiễm dục lậu sau khi ý biết cảnh pháp. Sống như vậy, này chư hiền giả, nếu Ma vương đến với vị ấy bằng mắt, bằng lưỡi, bằng ý...ma vương không nắm bắt đối tượng, không nắm được cơ hội...

Vã lại, này chư hiền giả, sống như vậy là vị Tỳ khưu chinh phục sắc, các sắc không chinh phục vị ấy. Vị ấy chinh phục cảnh thinh, hương, vị, xúc, pháp. Và chúng không chinh phục vị ấy. Như vậy này chư hiền giả một vị Tỳ khưu được gọi là "người chinh phục sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp". Vị ấy chinh phục các ác bất thiện pháp, nhiễm ô, dẫn đến tái sanh, đầy sợ hãi, kết quả là đau khổ, sanh, già và chết. Như vậy này chư hiền giả, vị đó đã thoát khỏi dục lậu.

CÂU HỎI:

1/- Tâm tố là gì?
2/- Khi chúng ta mĩm cười, nụ cười đó thường biểu lộ tâm tham phải không?
3/- Tâm bất thiện và tâm thiện có thể phát sanh trong một tiến trình ngũ môn không?

Chú thích:

[1] "Panca" là năm, "dvàra" là môn, "àvajjana" là chú ý đến hay hướng về.

[2] Votthapanacó thể được dịch là "thích hợp", "thiết lập" hay "xác định".

[3] Ngoại trừ trường hợp bậc A la hán không có tâm thiện mà cũng không có tâm bất thiện, nhưng có tâm tố.

[4] Trong 89 loại tâm không có loại tâm phán đoán đặc biệt này, tâm khán ý môn giữ chức năng phán đoán.

[5] "Ác pháp": Màraám chỉ cho những điều bất thiện và đau khổ.

---o0o---

Source : BuddhaSasana Home Page

---o0o---

Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/01/2017(Xem: 9904)
Hiểu tư tưởng Duyên Khởi thì hiểu Triết học Phật giáo. Thuyết “duyên khởi” là một nền tảng triết lý rất quan trọng trong lời giáo huấn của Đức Phật. Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã căn cứ vào lẽ sanh khởi của dukkha (những điều không hài lòng, căng thẳng, khổ đau…) mà nói lên sự liên hệ nhân quả của nó gồm có 12 thứ/ 12 chi. Ngài lập ra thuyết “duyên Khởi”.
22/12/2016(Xem: 29252)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 15735)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 10047)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
27/08/2016(Xem: 7408)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
27/08/2016(Xem: 5403)
Định nghĩa. Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : bãi biển, bờ đê, quán cà phê, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa, chánh điện, trong chợ, trên đoạn đường xa lộ, bãi đậu xe (parking), v.v…Trên mặt của toàn thể vũ trụ đều có vô số vạn hữu (cỏ, cây, muôn thú), và con người, gọi chung chư pháp. Kinh văn Phật nói: “Thật tướng của vạn hữu (chư pháp) là vô ngã “. Q
31/05/2016(Xem: 13273)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
28/05/2016(Xem: 12989)
Phật Tánh đó là Tánh Giác Ngộ, Tánh Phật, Bổn Tánh Lành, Mầm Lương Thiện trong mọi loài chúng sinh. Cũng gọi là Như Lai Tánh, đối nghĩa với chúng sanh tánh. Kinh Phạm võng: Tất cả chúnh sanh đều có sẵn Tánh Giác Ngộ nơi mình (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh). Nhờ có Tánh Giác Ngộ ấy, bổn tánh lành ấy chúng sanh công nhận và thấu đạt lý nhân quả, hiểu cái thể tự nhiên của mình đồng với Phật. Phật Tánh nơi ta luôn tiến chớ không phải thối, tích lũy chớ không phải tiêu vong, nó tiến tới mãi, nó khiến cho cảnh trần càng tươi đẹp, càng thuần tịnh, nó đưa lần mọi vật đến gần cái tuyệt đẹp, tuyệt cao, tuyệt diệu, tuyệt trong sáng thánh thiện. Mỗi loài đều có nơi mình Phật Tánh, dầu cho loài nào có thấp hèn tới đâu cũng có khả năng thành Phật. Không trừ loài nào, không một ai mà không có khả năng thành Phật.
30/04/2016(Xem: 17616)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 35915)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]