Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17. Gia đình hạnh phúc

11/01/201115:37(Xem: 5360)
17. Gia đình hạnh phúc

THỨC BIẾN
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Nhà Xuất Bản TP. HCM, 2003

GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC

"Cha nghiêm, mẹ từ, conhiếu" là ba đức tánh để xây dựng một gia đình hạnh phúc theo phong tục tậpquán của người Việt nam. Quê hương chúng ta có truyền thống giữ gìn nếp sốnggia đình đầm ấm từ đời nọ đến đời kia chính là nhờ ba yếu tố đó. Khi nếp sốnggia đình được bảo trì và vun đắp thì đạo đức xã hội cũng được bảo đảm và tôntrọng, từ đó mới có sự đoàn kết và đó cũng là một trong những yếu tố tinh thầnyêu nước bền chắc từ xưa tới nay.

Trong xã hội Việt nam, vai trò đầuđàng trong gia đình chính là người cha. Vậy vai trò đó cụ thể phải thể hiện nhưthế nào? Trước hết là bậc làm cha phải nghiêm.

1. Cha nghiêm: là người cha có một đời sống gương mẫu, có tâm hồn caothượng, không đam mê cờ bạc, rượu chè, sắc dục, lo làm ăn sinh sống với mọingười nhưng không giao du với bạn ác. Khi các bậc làm cha tránh bốn điều áctrên và luôn luôn toàn tâm toàn ý lo lắng để xây dựng gia đình và dạy dỗ concái đến nơi đến chốn thì người cha ấy là một tấm gương sáng cho con noi theo.Đó là một người cha có công ơn sâu dày đối với con cháu.

2. Mẹ từ: là người mẹ có tấm lòng thương con. Đây là đức tính thiêngliêng và là một tình thương cao quý không có bến bờ. Bà mẹ thương con từ khicon còn ở trong bụng, bao giờ bà cũng nghĩ rằng con ta chính là xương của mình,thịt của mình, máu của mình - họ luôn luôn ý thức rằng: giữa con và mình làmột. Chính vì thế mà khi con đau là mẹ đau, khi con lành thì mẹ lành, khi convui thì mẹ vui, khi con khổ thì mẹ khổ. Vì vậy mà chúng ta có thể nói: mở đầucuộc đời người con chính là mẹ, là cha, là một tình thương lai láng không thểdiễn tả hết. Nên tục ngữ của chúng ta có câu:

"Mẹgià như chuối ba hương
Như xôi nếp một như đường mía lau.
Mía lau vừa ngọt vừa mềm
Công cha nghĩa mẹ không tiền nào mua".

Mía lau là một đặc sản của người dânViệt nam, ngọt và thơm lắm. Tình thương của bà mẹ đối với con cái cũng ngọtngoài như mía lau vậy. Mía lau ngọt từ trong ra ngoài thì tình thương của mẹđối với con từ khi con còn trong bụng mẹ cho đến khi ra đời, rồi lớn khôn, bạcđầu vẫn không thay đổi. Hình ảnh cảm động nhất là khi mẹ già 80, 90 tuổi vẫncòn thương con 60, 70 tuổi, coi như con mới lọt lòng ra. Tình thương trước saunhư một, không thay đổi

"Cha nghiêm, mẹ từ" đó làhai đức tính để làm gương cho một gia đình, làm rường cột tạo nên hạnh phúc chocon cái. "Cha nghiêm, mẹ từ" là một tấm gương sáng để cho con cháunoi theo, để trở thành một người cha và người mẹ đúng nghĩa sống làm người, làyếu tố cho con cháu hiếu thảo, tôn thờ sau này.

3. Con hiếu: là người con hết mực yêu thương cha mẹ, thấm thía tìnhthương của cha mẹ khi còn sanh tiền, chứ không phải đợi khi tuổi già mới biếtcông ơn cha mẹ. Cũng không phải đợi khi cha mẹ nuôi con lớn khôn mới hiểu tìnhthương yêu của cha mẹ. Biết như thế cũng là điều rất quý nhưng cũng có phần hơichậm trong suy nghĩ và hơi trễ trong bổn phận làm người. Cho nên, người conhiếu phải là người con có ý thức, phải biết nhìn thấy tâm tư của cha mẹ, tìnhthương của cha mẹ cực nhọc, ngày đêm lo cho con cháu được no cơm ấm áo, lo chocon cái trở thành người khôn lớn. Là con cái thì phải biết quý trọng tìnhthương ấy của cha mẹ, để sống một cuộc đời như thế nào cho có ý nghĩa và trởthành một con người có hiếu.

Một người con hiếu phải luôn luônbiết ơn cha mẹ, biết rõ sự lo lắng cực nhọc của cha mẹ.

Tóm lại, gia đình nào có đủ ba đứctánh: cha nghiêm, mẹ từ, con hiếu, đó là một gia đình có nhiều hạnh phúcan lạc đúng như tiền nhân của chúng ta đã dạy:

"Côngcha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi."

Hoặc:

"Muốiba năm muối đương còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Công cha nghĩa mẹ cao dày
Con ơi hãy nhớ lời này chớ quên."




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/01/2015(Xem: 21364)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
05/01/2015(Xem: 18926)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
15/12/2014(Xem: 10947)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây, nơi mà chúng ta đã có những tôn giáo của chúng ta, vậy thì tại sao chúng ta cần Phật Giáo? Tôi nghĩ thật quan trọng để hiểu rằng khi chúng ta nói về Phật Giáo, chúng ta có nhiều phương diện khác nhau đối với Phật Giáo. Đấy là những gì chúng ta có thể gọi là khoa học Phật Giáo, tâm lý học Phật Giáo, và tín ngưỡng Phật Giáo:
11/12/2014(Xem: 5909)
Sư nói: - Phật cùng chúng sinh một tâm không khác. Tỷ như hư không, không tạp loạn, không hư hoại. Như vầng nhật lớn chiếu khắp thiên hạ; khi mặt trời lên chiếu sáng khắp nơi, hư không chưa từng sáng. Lúc mặt trời lặn u tối khắp nơi, hư không chưa từng tối. Cảnh sáng tối tự tranh nhau, còn tính của hư không thì rỗng rang không thay đổi.
27/11/2014(Xem: 12514)
Các phương đông, nam, tây, bắc, trên, dưới gọi là “vũ”, tức chỉ không gian vô hạn; từ ngàn xưa đến ngày nay gọi là “trụ”, tức chỉ thời gian vô hạn. Trong triết học gọi là thế giới, tức chỉ tất cả vật chất và toàn bộ hình thức tồn tại của nó. “Vũ trụ” của Phật giáo cũng bao hàm tứ duy (đông nam tây bắc) thượng hạ, quá khứ, hiện tại và vị lai, đồng thời dung chứa thế gian hữu tình vô lượng vô số, và khí thế gian rộng lớn mênh mông. Từ xưa đến nay, con người không ngừng thảo luận và nghiên cứu về sự tồn tại bí ẩn của vũ trụ; từ trong thần thoại của thuở hồng hoang đến sự phát hiện lần lượt của hệ thái dương, hệ ngân hà; sự biến chuyển từng ngày của khoa học khiến cho nhân loại bừng sáng và hiểu ra rằng thời gian và không gian (thời không), hữu tình, vật chất đều tự nhiên rộng lớn vô cùng, vượt xa ngoài phạm trù có thể hiểu biết của loài người.
25/11/2014(Xem: 10942)
Bài chuyển ngữ dưới đây được trích từ một quyển sách mang tựa Con tim giải thoát (A Heart Released) của nhà sư Thái Lan Ajahn Mun (1870-1949). Ajahn Mun và thầy của ông là Ajahn Sao (1861-1941) là những người đã tái lập "Truyền thống tu trong rừng", một phép tu thật khắc khổ và nghiêm túc, nêu cao lý tưởng của một cuộc sống khất thực không nhà của thời kỳ khi Đức Phật còn tại thế. Vị đại sư Ajahn Chah - mà người Thái tôn thờ như người cha sinh ra mình - thuộc thế hệ thứ hai của truyền thống này, và vị thầy của ông không ai khác hơn là Ajahn Mun.
19/11/2014(Xem: 10862)
Có một số người học Phật thích tìm kiếm, thu thập những tư tưởng cao siêu, từ đó đem ra lý giải, phân tích rất hay nhưng phần hạ thủ công phu, tu tập cụ thể như thế nào lại không nghe nói tới! Họ đã quên rằng, kiến thức ấy chỉ là âm bản, chỉ là khái niệm, không phải là cái thực. Cái thực ấy phải tự mình chứng nghiệm. Cái mà mình chứng nghiệm mới là cái thực của mình.
19/11/2014(Xem: 13472)
Văn học là một trong những phương thức biểu đạt tình cảm và trí thức của loài người. Một tác phẩm văn học hay, không chỉ tạo ra tiếng vang rộng lớn tại thời điểm và địa phương nào đó, thậm chí nó có khả năng siêu vượt biên giới thời-không, dẫn dắt nhân tâm bước vào cảnh giới chân- thiện- mỹ. Trong Phật giáo có rất nhiều tác phẩm chính là đại diện cho loại hình này; đặc biệt chính bản thân Đức Phật cũng là nhà văn học tài trí mẫn tiệp, trí tuệ siêu quần.
16/11/2014(Xem: 15257)
Lý thuyết nòng cốt của Phật giáo về sự cấu tạo con người và vũ trụ là năm uẩn. Uẩn có nghĩa là sự chứa nhóm, tích tụ: 5 uẩn là 5 nhóm tạo thành con người. Sở dĩ gọi “nhóm” là vì: 1) Tâm vật không rời nhau, tạo thành một nhóm gọi là uẩn. 2) Gồm nhiều thứ khác nhau họp lại, như sắc uẩn là nhóm vật chất gồm 4 đại địa thủy hỏa phong (chất cứng, chất lỏng, hơi nóng, chuyển động) và những vật do 4 đại tạo thành. 3) Mỗi một nhóm trong 5 uẩn có đặc tính lôi kéo nhóm khác, như sắc uẩn kéo theo thọ, thọ kéo theo tưởng, tưởng kéo theo hành... 4) và cuối cùng ý nghĩa thâm thúy nhất của uẩn như kinh Bát nhã nói, là: “kết tụ sự đau khổ”.
15/11/2014(Xem: 20260)
Nên lưu ý đến một cách phân biệt tinh tế về thứ tự xuất hiện của hai kiến giải sai lầm trên. Đầu tiên là kiến giải chấp vào tự ngã của các nhóm thân tâm, và từ cơ sở này lại xuất phát kiến giải chấp vào tự ngã của cá nhân. Trong trường hợp nhận thức được Tính không thì người ta sẽ nhận ra Tính không của nhân ngã trước; bởi vì nó dễ được nhận ra hơn. Sau đó thì Tính không của pháp ngã được xác định.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]