Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01. Thức Biến

11/01/201115:16(Xem: 5510)
01. Thức Biến

THỨC BIẾN

Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Nhà Xuất Bản TP. HCM, 2003

THỨC BIẾN

Có những đêm dưới ánh trăng soi, trong một phút bàng hoàng ta đã từng nhìn lầm tàu lá chuối rung rinh ra một bóng người áo trắng đang lay động; có những lúc nửa tỉnh nửa mê ta từng nghe tiếng cho sủa xa xa như tiếng người cải lộn, và nhiều lúc mơ ngủ tađã lầm nhận bàn tay mìnhđè lên ngực thành một quái vật nặng nề. Trong những lúc ấy, vì sao cảnh lại biến đổi như thế?

"Vì tâm mình mê hoảng".Ðó là câu lời của lý Duy tâm thông thường. Lý ấy cho rằng giá trị, tánh cách một vật, một cảnh không nhấtđịnh như thế nào, nó chỉ tùy theo tâm hồn mình mà biến hóa ra thế này thế kia, cho nên lắm lúc người buồn, cảnh buồn, người vui, cảnh vui, như nhà thơ Nguyễn Duđã nói: "Người buồn cảnh có vuiđâu bao giờ". Hoặc giả biết bao phen cùng trong một cảnh mà "Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm".

Lại như, thì giờ nào có khi mau khi chậm, thế mà, "Ngày vui ngắn chẳng tày gang, ngày sầu dài tưởng đến hàng mấy thu".

Nhưng ta cũng nên tự hỏi, lúc mơ hoảng thấy lá chuối ra bóng áo, tiếng chó tựa tiếng người, bàn tay ra quái vật. Trong những lúc ấy cảnh thật là gì? Là lá chuối nhuộm ánh trăng hay bóng người, là tiếng chó hay tiếng người, là bàn tay hay hình quái? Cảnh thật là lá chuối, tiếng chó, bàn tay ư? Không,đó chỉ là cảnh của người thức, cảnhđó chỉ thật với người thức, chứ với người đang mơ, chính là bóng áo, tiếng người và hình quái kia!

Thế thì biết cảnh nào là thật? Cho nên ta cũng không lạ cho lòng ngờ của Trang Tử lúc nằm mộng thấy mình hóa bướm "Ta là người nằm mộng hóa bướm, hay là bướm nằm mộng hóa người?"

Ai mà giải quyết được!

Lý Duy tâm thông thường phân biệt thật giả chỉ là thiên chấp, vì lý ấy nhận có cảnh thiệt nhưng tâm hồn người đã tô màu cho các cảnh đó, như lớp vỏ trùm lên gỗ, gia vị hòa vào thức ăn. Nhưng lý ấy nào có biết thật giả, đó chỉ làđối đãi mà có, chứ cảnh trong mêđối với lúc mê vẫn thật.

Lý Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoađốm giữa hư không.

Ðó cũng là một phép quán duy tâm để nhận rõ chân tánh pháp giới.

Chân tánh tuyệt đối của vũ trụ (tức pháp giới) không thể tả được, không thể tưởng tượng được, vì muôn hình vạn tượng của pháp giới đều làđối đãi mà có. Thoát khỏi các phương diện đối đãi thì không thễ nghĩ nghì cảnh ấy thế nào được.

Pháp giới như số trăm (100). Số trăm không thể nghĩ nghì được, vì thực sự nó không nhất định có một tính cách gí cả. Số 100 chỉ có tính cách đối đãi mà thôi, nghĩa là một trăm người, 100 xu hay 100 sông v.v. Chính nhờ những tính cách: người, xu, sông đó làm cho số 100 thành có tính cách rõ rệt: 100 người, 100 xu, 100 sông.

Pháp giới như số 100 ấy, tính cách không thể nghĩ nghì, nó chỉ tùy tâm niệm mà hóa ra có tính cách cùng tướng này tướng kia. Chính những tính cách, những tướng ấy mà ta gọi là sự vật. Nó hoàn toàn là cảnhđối đãi với tâm niệm vậy.

Chẳng hạn như sông, núi, trăng sao, chỉ là pháp đối đãi với tâm người mà hiện ra, chứ đối với tâm loài khác, nghiệp khác chưa hẳn đã có. Nước chỉ theo tâm người mà có; với tâm cá, nước chắc đâuđã là nước (tình hữu lý vô).

Vì thế, Ðức Phật đã từng nói: "Sự sự, vật vật như hoa đốm giữa hư không".

Hư không nào có hoa đốm, thế mà trừng mắt nhìn lâu cũng thấy giữa hư không có hoađốm lăng xăng. Pháp giới ví như hư không; hoa đốm như muôn tướng; sự mỏi mắt như nghiệp các loài.

Sự sự, vật vật đây không phải chỉ các tướng hình như cảnh vật chung quanh mình, mà chođến thấy, nghe, suy nghĩ, tư tưởng cùng các tâm pháp khác như vui, buồn, phiền não, thiện ác v.v.

Nhưng đã biết rằng tâm và cảnh chỉ do đối đãi mà có thì có thể hoặc:

1. Ðối tâm niệm là để đối cảnh, nhơn đó mới biết quả "Ngoài tâm không cảnh".Ðó là phép quán pháp tánh.

2. Xét nơi cảnh mà nhận rõ cảnh tức tâm. Ðó là phép quán pháp tướng.

Thường ta nhận thấy có tâm đối với cảnh, tâm là năng tri, cảnh là sở tri. Nhưng xét kỹ thì giữa năng tri và sở tri không có giới hạn. Không năng tri thì sở tri cũng diệt, không sở tri thì năng tri cũng tiêu; vì thế biết rằng tâm và cảnh chỉ là hai phầnđối đãi của chơn tâm. Theo Duy thức học thì cảnh là tướng phần, tâm là kiến phần của căn bản thức (hay đệ Bát thức) mà thôi. Rõ như sơđồ sau:

Kiến phần + Tướng phần = Tự chứng phần ==> Chứng tự chứng phần: Thức

ÐỆ BÁT THỨC

Như tay sờ đầu, tay là kiến phần,đầu bị sờ là tướng phần, cái thân cảm nhận sự sờ đó là sự chứng phần và mình biết rằng cái thân có nhận cảm sự sờ đó, sự biết ấy là chứng tự chứng phần.

Tâm cũng như tay, cảnh cũng như đầu chỉ là hai phần của một thể, vì do sự động chạm mà phát ra có kiến và tướng thôi. Như thế thì biết kiến phần (tâm), tướng phần (cảnh) cùng tự chứng phần và chứng tự chứng phầnđều là tác dụng của tâm thức mà thôi

DUY CẢNH

Quán duy tâm xong cần quán duy cảnh để phá trừ cho rốt ráo ngã chấp và pháp chấp. Quán duy cảnh làđem tâm mìnhđặt vào một cảnh, thâu tâm chođúng với tâm cảnh ấy để nhận pháp giới đối đãi với cảnh. Như đặt tâm mình vào người khác thời phải quán cảnh xung quanh người ấy, đúng như người ấy thấy; hoặc xa hơn như đặt tâm mình vào con cá, thời phải quán nước thành vô hình, mà không khíđối với mình hóa ra nghẹt thở, những thức ăn ngon lành là rêu cỏ v.v. Lúc nào rốt ráo quán pháp giới được đúng với pháp giới người khác hoặc với pháp giới con cá, thì sẽ hiểuđược tất cả tâm trạng vàđời sống của người khác cũng như của con cá, và nhờ trí quán ấy mới có thể cảm hóa người và cá một cách dễ dàng.

* * *

Năm xưa Hòa thượng Phúc Hậu chùa Báo Quốc trong một dịp Tết Nguyên đán, Ngàiđã ung dung viết dán lên vách những câu đối, bài thơđể đón mừng xuân mới. Tôi may mắn được đọc những vần thơ siêu thoát của Ngài ngay khi nó vừađược viết ra còn chưa ráo mực. Có những câu thơ đã inđậm vào trí óc non dại của tôi lúc bấy giờ mà ngày nay vẫn còn hiện rõ. Mừng xuân, Ngàiđã mở đầu hai câu: "Giàu sang lễ nghĩa mấy cho cùng,đạm bạc ngày xuân cúng tấm lòng... "Thật là giản dị mà đầy đủ. Giàu sang lễ nghĩa, ít nhiều thiếu đủ chi được phô bày tùy người tùy cảnh, chẳng có gì nhất định, nên cũng chẳng biết mấy cho cùng. Kẻ giàu sang mà chẳng có gì nhấtđịnh, nên cũng chẳng biết mấy cho cùng. Kẻ giàu sang mà chẳng có lễ nghĩa, hay kẻ có lể nghĩa mà không giàu sang đã đành là thiếu, dẫu ngay đến kẻ vừa giàu sang vừa lễ nghĩa, nhưng thiếu "tấm lòng" thì giàu sang lể nghĩa ấy cũng hóa ra hời hợt, mong manh chưa đủ cúng "tấm lòng" thật là đạm bạc! Nhưng thiếu tấm lòng là thiếu tất cả. Có tấm lòng mới rực rỡ hoa dâng, trànđầy hoan lạc, mới dựng nổi cảnh sắc huy hoàng thanh thoát.

Nghĩ vậy, nên hôm nay, đối trước tôn tượng đức Bổn sư, tôi bắt chước Hòa thượng, trước hết dâng lên đức Phật tấm lòng thành kính tưởng niệm những giáo lý cao siêu mà Ngàiđã vì chúng ta mà dạy bảo, hầuđáp đền một trong muôn phần công ơn của Ngài, cũng là để khỏi phụ bản hoài củađức Phật là: Ngài xuất hiện trong thế gian này chỉ vì muốn "khai thị cho chúng sinh ngộ nhập kiến Phật."

Ðó là lý do khiến tôi trịnh trọng ghi ra những dòngđạo lý trênđây vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/01/2015(Xem: 21589)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
05/01/2015(Xem: 19093)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
15/12/2014(Xem: 11104)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây, nơi mà chúng ta đã có những tôn giáo của chúng ta, vậy thì tại sao chúng ta cần Phật Giáo? Tôi nghĩ thật quan trọng để hiểu rằng khi chúng ta nói về Phật Giáo, chúng ta có nhiều phương diện khác nhau đối với Phật Giáo. Đấy là những gì chúng ta có thể gọi là khoa học Phật Giáo, tâm lý học Phật Giáo, và tín ngưỡng Phật Giáo:
11/12/2014(Xem: 5929)
Sư nói: - Phật cùng chúng sinh một tâm không khác. Tỷ như hư không, không tạp loạn, không hư hoại. Như vầng nhật lớn chiếu khắp thiên hạ; khi mặt trời lên chiếu sáng khắp nơi, hư không chưa từng sáng. Lúc mặt trời lặn u tối khắp nơi, hư không chưa từng tối. Cảnh sáng tối tự tranh nhau, còn tính của hư không thì rỗng rang không thay đổi.
27/11/2014(Xem: 12563)
Các phương đông, nam, tây, bắc, trên, dưới gọi là “vũ”, tức chỉ không gian vô hạn; từ ngàn xưa đến ngày nay gọi là “trụ”, tức chỉ thời gian vô hạn. Trong triết học gọi là thế giới, tức chỉ tất cả vật chất và toàn bộ hình thức tồn tại của nó. “Vũ trụ” của Phật giáo cũng bao hàm tứ duy (đông nam tây bắc) thượng hạ, quá khứ, hiện tại và vị lai, đồng thời dung chứa thế gian hữu tình vô lượng vô số, và khí thế gian rộng lớn mênh mông. Từ xưa đến nay, con người không ngừng thảo luận và nghiên cứu về sự tồn tại bí ẩn của vũ trụ; từ trong thần thoại của thuở hồng hoang đến sự phát hiện lần lượt của hệ thái dương, hệ ngân hà; sự biến chuyển từng ngày của khoa học khiến cho nhân loại bừng sáng và hiểu ra rằng thời gian và không gian (thời không), hữu tình, vật chất đều tự nhiên rộng lớn vô cùng, vượt xa ngoài phạm trù có thể hiểu biết của loài người.
25/11/2014(Xem: 11047)
Bài chuyển ngữ dưới đây được trích từ một quyển sách mang tựa Con tim giải thoát (A Heart Released) của nhà sư Thái Lan Ajahn Mun (1870-1949). Ajahn Mun và thầy của ông là Ajahn Sao (1861-1941) là những người đã tái lập "Truyền thống tu trong rừng", một phép tu thật khắc khổ và nghiêm túc, nêu cao lý tưởng của một cuộc sống khất thực không nhà của thời kỳ khi Đức Phật còn tại thế. Vị đại sư Ajahn Chah - mà người Thái tôn thờ như người cha sinh ra mình - thuộc thế hệ thứ hai của truyền thống này, và vị thầy của ông không ai khác hơn là Ajahn Mun.
19/11/2014(Xem: 10951)
Có một số người học Phật thích tìm kiếm, thu thập những tư tưởng cao siêu, từ đó đem ra lý giải, phân tích rất hay nhưng phần hạ thủ công phu, tu tập cụ thể như thế nào lại không nghe nói tới! Họ đã quên rằng, kiến thức ấy chỉ là âm bản, chỉ là khái niệm, không phải là cái thực. Cái thực ấy phải tự mình chứng nghiệm. Cái mà mình chứng nghiệm mới là cái thực của mình.
19/11/2014(Xem: 13580)
Văn học là một trong những phương thức biểu đạt tình cảm và trí thức của loài người. Một tác phẩm văn học hay, không chỉ tạo ra tiếng vang rộng lớn tại thời điểm và địa phương nào đó, thậm chí nó có khả năng siêu vượt biên giới thời-không, dẫn dắt nhân tâm bước vào cảnh giới chân- thiện- mỹ. Trong Phật giáo có rất nhiều tác phẩm chính là đại diện cho loại hình này; đặc biệt chính bản thân Đức Phật cũng là nhà văn học tài trí mẫn tiệp, trí tuệ siêu quần.
16/11/2014(Xem: 15444)
Lý thuyết nòng cốt của Phật giáo về sự cấu tạo con người và vũ trụ là năm uẩn. Uẩn có nghĩa là sự chứa nhóm, tích tụ: 5 uẩn là 5 nhóm tạo thành con người. Sở dĩ gọi “nhóm” là vì: 1) Tâm vật không rời nhau, tạo thành một nhóm gọi là uẩn. 2) Gồm nhiều thứ khác nhau họp lại, như sắc uẩn là nhóm vật chất gồm 4 đại địa thủy hỏa phong (chất cứng, chất lỏng, hơi nóng, chuyển động) và những vật do 4 đại tạo thành. 3) Mỗi một nhóm trong 5 uẩn có đặc tính lôi kéo nhóm khác, như sắc uẩn kéo theo thọ, thọ kéo theo tưởng, tưởng kéo theo hành... 4) và cuối cùng ý nghĩa thâm thúy nhất của uẩn như kinh Bát nhã nói, là: “kết tụ sự đau khổ”.
15/11/2014(Xem: 20774)
Nên lưu ý đến một cách phân biệt tinh tế về thứ tự xuất hiện của hai kiến giải sai lầm trên. Đầu tiên là kiến giải chấp vào tự ngã của các nhóm thân tâm, và từ cơ sở này lại xuất phát kiến giải chấp vào tự ngã của cá nhân. Trong trường hợp nhận thức được Tính không thì người ta sẽ nhận ra Tính không của nhân ngã trước; bởi vì nó dễ được nhận ra hơn. Sau đó thì Tính không của pháp ngã được xác định.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]