Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

19. Vài nhận xét về nghi lễ trong Phật giáo

11/01/201115:39(Xem: 6213)
19. Vài nhận xét về nghi lễ trong Phật giáo

THC BIN
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Nhà Xuất Bản TP. HCM, 2003

VÀI NHẬN XÉT VỀ NGHI LỄ TRONG PHẬT GIÁO

Nghi lễ là một bộ phận sinh hoạtkhông thể thiếu được trong Phật giáo. Tuy nhiên, sinh hoạt đó gần như chiếm hếtthì giờ trong đời sống người xuất gia hiện nay! Nếu nghi lễ không được đặt đểtrong khuôn khổ chính đáng của Phật pháp, không được dùng với mục đích mượnhình thức để tuyên dương Phật pháp, dẫn kẻ sơ cơ vào đạo, dùng nghi lễ để điềuhòa tình cảm và lý trí, làm sao cho con người được nhịp nhàng tiến bộ như ngườixưa chế ra nó, thì nghi lễ sẽ thiếu năng lực đưa người vào chánh đạo, và có tácđộng xấu đến tâm lý, sẽ gây ngộ nhận đối với quần chúng. Nghi lễ khi đã khôngđi đúng quỹ đạo làm phương tiện phụng sự đạo pháp, chắc rằng người đời sẽ mãicho đạo Phật là mê tín, dị đoan, thoái hóa, ru ngủ quần chúng.

Nói như thế, nhưng Phật giáo có nênbỏ hẳn nghi lễ được không? Theo tôi, không thể được. Vì tất cả các tôn giáo,đoàn thể giữa thế gian này không ai là không dùng nghi lễ để phục vụ cho tínngưỡng của mình. Nếu Phật giáo bỏ phần đó tức là đã bỏ rơi một số người muốnquay về với Chánh pháp. Hơn nữa, đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ, dùng bốnvạn tám ngàn pháp môn phương tiện để đưa người đến bờ giải thoát. Đức Phật,ngoài giảng dạy trực tiếp cho các Tỷ-kheo, Tỷ kheo-ni, các nam nữ cư sĩ, Ngàicòn lấy tâm truyền tâm cho Tôn giả Ca-diếp gọi là "Niêm hoa vi tiếu".Kinh luận Phật giáo Đại thừa thường hay nhắc câu chuyện: Một hôm, trong hộichúng đông đảo, đức Thế Tôn không nói gì khi Ngài ngồi trên Pháp toà, im lặngnhư Chánh Pháp. Thính chúng ai nấy cũng im lặng. Lúc ấy Thế Tôn nhẹ nhàng đưamột cành hoa lên trước đám đông, hội chúng không ai hiểu gì trước cử chỉ có ýnghĩa của đức Thế Tôn. Chỉ có Tôn giả Ca-diếp im lặng mỉm cười và Thế Tôn mỉmcười hoan hỷ. Câu chuyện lấy tâm truyền tâm chỉ có một nụ cười trực ngộ giảithoát là như vậy, cho nên trong Phật giáo, ngoài phần tâm truyền phải có phầncông truyền thì mới tùy cơ giáo hóa chúng sinh được. Trong phần công truyền,hình thức nghi lễ là một, và thực tế nó đã có một nhiệm vụ lớn lao, cảnh tỉnhđa số quần chúng mà căn cơ chỉ duyên cảm để tin Phật trước khi cần hiểu đểtheo.

Nghi lễ Phật giáo có công năng tốtđẹp như thế, vậy thì tư cách của người thi hành nó phải như thế nào để quầnchúng Phật tử và người đời khỏi hiểu lầm là Phật giáo lợi dụng hình thức nghilễ để buôn bán thánh thần? Theo tôi, nghi lễ ngày nay cần chú ý các mặt sauđây:

- Tư cách người thi hành lễ phảixứng đáng, để gây sự tôn kính và tin tưởng Tam Bảo trong lòng mọi người.

- Tránh mọi hình thức rườm rà, thiếutrang nghiêm trong khi hành lễ. Phải giữ điều cần yếu khi hành lễ là ThànhtâmKính Phật.

- Không xen lẫn những hình thức nghilễ của ngoại đạo vào Phật giáo, hoặc đem nghi lễ Phật giáo thi thố ở những nơità đạo. Nghĩa là phải nhận thức đại cương về các nghi lễ, trong đó thứ nào nêntránh và thứ nào nên theo. Thiết nghĩ, chúng ta nên chia ra các mục sau đâytrong nghi lễ Phật giáo.

1. Thờ tự

Thờ tự có nhiều ý nghĩa. Thờ vớitính cách tri ân như thờ cha mẹ, sư trưởng. Thờ với tính cách tôn kính như thờcác vị anh hùng hiền triết trong lịch sử. Đối với người xuất gia, khi làm lễthọ giới pháp của Phật chế, trước hết, họ phải làm lễ lạy tạ cha mẹ, từ đó vềsau trên danh nghĩa là một người "nhân thiên nhãn mục", không còn trởlại bái phục quân vương, phụ mẫu nữa. Tuy nhiên, người xuất gia cũng luôn luôntưởng niệm các vị ân nhân, nhất là ân cha mẹ và cầu nguyện hết thảy đều đượcsiêu sanh Lạc độ. Duy nhất, với tính cách vừa tri ân vừa tôn kính đối với bậcĐạo sư chỉ đường thoát khổ, người xuất gia nên thờ Tam Bảo mà thôi. Nhưng Tam Bảotheo quan niệm Bắc tông và Nam tông khác nhau. Theo quan niệm Nam tông thì chỉthấy Phật trong một đời. Khi ngài nhập diệt rồi thì Phật thân đã an trú trongcảnh Niết-bàn, nhưng họ tin vào Phật, họ tín ngưỡng, tôn thờ như Phật còn tạithế. Vậy nên, các nước theo Nam tông như Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến điện,Tích Lan... họ thờ Phật là cốt để tri ân Đấng giáo chủ ban bố Chánh Pháp chochúng sinh đã qua đời, hơn là để mong cầu cảm ứng. Trái lại, theo quan niệm Bắctông, với pháp nhãn đạt quang, thấy Phật khắp cả mười phương, thông suốt tươngtục vô thỉ vô chung, ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai không gián đoạn tâm Phậttrong mỗi người thờ Phật như Việt Nam, Trung Hoa, Nhật bản, Đại Hàn, Mông Cổ...Vì vậy, họ thờ Phật vừa để kỷ niệm, mà cũng vừa cầu sự cảm ứng gia hộ cho đệ tửtrên bước đường tu tập. Họ quan niệm: Phật thường trú thế gian, nên một khitượng Phật đã tôn thờ trên toà sen tức xem như Phật còn tại thế, Ngài luôn luônnhìn thấy hành động của đệ tử mà cảm ứng đạo tâm, hiển hiện Phật lực để an ủi,khuyên răn và gia trì hộ niệm.

Thế nhưng, ở Việt nam chúng ta ngàynay vấn đề thờ tự đã trở nên phức tạp nhiều. Một ngôi chùa đúng lý để thờ TamBảo hoặc thờ Tam Thế Phật nhưng nơi lại thờ luôn Quan Thánh, Ngọc hoàng, Thánhmẫu, Thập điện như nhiều chùa thuộc khu vực miền Nam và miền Trung. Thờ luôn cảthánh mẫu thì nhiều nhất là các chùa miền Bắc. Đó là chưa nói thờ nhiều hìnhtượng khác không dính dáng gì đến đạo Phật. Thế gian, một số người cho rằng,bất cứ tượng nào, hễ lọt vào mắt nhà chùa cũng trở nên linh thiêng, đưa vàochùa thờ được cả, thậm chí còn có cả ông địa nữa. Tệ hại hơn có người không thờtại chùa, lại bày vẽ a tòng những nơi thờ thiếu trang nghiêm, có vẻ tà mị yêuquái, mê tín dị đoan...

Đau lòng thay! Một ngôi chùa đáng lýđể làm nơi tập Chúng tu hành, hoằng dương Chánh pháp, lại biến thành một ngôichùa riêng độc quyền chiêm ngưỡng, hoặc lấy đó làm nơi cúng kiến để nuôi thân.Dầu có nơi khá hơn, trong chùa cũng thờ Phật, nhưng lại thiếu tấm lòng thànhkính, tôn trí những hình tượng Phật và Bồ-tát không có tướng hảo trang nghiêm,lại còn treo những ảnh tượng hình thù kỳ quái ở hai bên bàn thờ, cắm những tờbùa, câu chú trước điện Phật. Thật là một điều tội lỗi lớn, như trong kinh TạoTượng đã nói. Với những ngôi chùa như vậy, mục đích là chỉ biết cúng kiến, nàođâu phải vì vấn đề giải thoát sanh tử đại sự, tập Chúng tu học cầu mong giảithoát. Thảm thương thay! Một lối thờ cúng như vậy lại làm cho Đạo Phật suy yếubiết dường nào.

2. Cúng kính

Đã có thờ tất nhiên có cúng. Vì nhớân, trọng nghĩa mà cúng, vì linh khí kẻ mất người còn giao cảm nhau mà cúng.Nhưng với người xuất gia thì thường chỉ cúng Tam Bảo mà thôi. Ngoài ra, vì sựlợi tha và báo hiếu, người xuất gia có thể cúng vọng tiến linh, cúng thí thực,cô hồn, kỳ an, kỳ siêu. Tuy nhiên, trong những cách cúng nói trên, một số ngườiđã quá lạm dụng nghi lễ, biến nó trở nên phức tạp và cầu kỳ, khiến cho quầnchúng cảm thấy nhà Sư là ông thầy cúng nhiều hơn là một vị tu hành để truyền báChánh pháp. Dưới mắt Phật tử và quần chúng đối với các nhà Sư trên, hầu như mụcđích của nhà Sư là cúng, cho đến chí nguyện của nhà Sư cũng chỉ cúng mà thôi.

Trong thời trước, tôi thấy thế gianbiết cúng một chuyện thì nhà Sư biết cúng trăm chuyện, thế gian biết một vịthần thì nhà Sư biết đến trăm vị thần. Ngoài lối cúng kiến nói trên, nhà Sư cònthạo cúng đất, cúng sao, cúng nam thương, yểu tử, cúng giải đàn oan, sai phan,sai phướng, cúng ngũ hành, thổ địa, hạ khoán, sai muội, cúng thánh, cúng thần,cúng tiên nương, Tôn giả, bổn mạng, bà mẫu... Lại còn cúng tốt vườn, tốt đất,tốt nhà, tốt bếp, cúng đưa ông Táo về trời... Bởi vậy chốn Già-lam mất hẳn tínhcách trang nghiêm thanh tịnh, không thể tập Chúng tu hành, tuyên dương chánhgiáo. Ngược lại, chùa trở thành nơi tập trung mọi sự cúng kính vì lẽ này hay kếnọ. Thậm chí có nơi còn khuyên tín đồ thờ cúng, lạy lục quỷ thần hơn lạy Phật,mà quên đi rằng: Người Phật tử đã quy y Tam Bảo là phát nguyện: Quy y Phật,thề không quy y thiên thần quỷ vật.Nếu không tỉnh ngộ, chánh pháp vì vậycàng xa, tà pháp càng gây hoạ cho người. Thật xót thương thay!

3. Lễ phục

Theo Phật chế, ba pháp y là áo mặcduy nhất của Tăng đồ, và khi thọ giới, Tăng-già đã nguyện mặc y phấn ảo, một ytrong ba y để làm trang phục hoạt dung hàng ngày như thuyết pháp, hành lễ, thọtrai... Vì đó là y phước điền, y giải thoát, không gì hơn nữa, miễn là giới đứctinh nghiêm thì đó là sự trang sức, là lễ phục đẹp nhất để cúng dường Tam Bảovậy.

Nay vì quốc độ, và tùy theo phongtục khác nhau, Phật giáo Bắc tông đã cải hóa theo thế nghi, tạo thành một lốilễ phục rườm rà hơn trước. Khi đến Việt Nam, nó lại cải hóa thêm một lần nữa.

Một chuyện đau lòng mà vào thời tôiđã chứng kiến, đó là sự phục sức lai hóa đến mức khó chịu. Thế nhưng nó vẫn cứlà cái mẫu lai tạpcủa thời đại trong Phật giáo. Những nhiễu y viền kimtuyến, nhưng đôi giày Tàu gắn bông đỏ, được mang vào một cách trịnh trọng và tỏvẻ sang trọng hào nhoáng trong mỗi kỳ đại lễ. Trong những lễ này, dẫu ai tuhành cho mấy mà thiếu cái y kim tuyến, đôi giày Tàu thì cũng phải nhường chỗcho người có nó đứng làm chủ lễ. Lẽ tất nhiên, khi mang chiếc y đẹp thì nó bắtngười mang phải nhớ nó hơn nhớ Phật, chú trọng mình hơn trọng người khác. Vìvậy, buổi lễ thiếu hẳn tinh thần cao quí vốn có của nó. Nhớ lại lời di huấn củaPhật: Pháp dục diệt thời ca-sa biến vị ngũ sắc, thì hiện trạng y phụcnày thật đáng buồn! Tôi nghĩ, những lễ phục, nhạc điệu đơn thuần mà đứng đắn,điều hòa mà tôn nghiêm có lẽ giữ cho buổi lễ tăng phần trang trọng lợi lạc hơn.

4. Truyền giới

Lễ truyền giới cũng là lễ thườngxuyên và thiết yếu của Tăng-già như lễ truyền giới Tam qui, Ngũ giới, Bát quantrai giới, Cụ túc giới và Bồ-tát giới, nhưng cũng phải theo quy tắc đã chỉ dạytrong các bộ Đại học Hoằng giới, Yết-ma Chỉ nam, Thọ giới Nghi Quỷ hoặc trongLuật tạng; và người truyền cũng như người thọ phải thành tâm thành kính, biếttôn trọng giới thể mới được. Nếu không thì lễ thọ giới chỉ là một kiểu mẫu thờitrang, trong đó người truyền không biết truyền gì, còn người thọ không biết thọgì, thế mà vẫn truyền, vẫn thọ.

Khi sắp Niết-bàn, đức Phật đã ân cầndặn dò: "Giới Ta còn thì như Ta còn, giới Ta còn thì đạo ta còn". Nhưthế, truyền giới là lễ rất quan trọng định đoạt sự nghiệp còn mất của Phậtgiáo.

Tóm lại, theo tôi: Nghi lễ có côngdụng gần quần chúng, làm phương tiện tiên phong để truyền bá đạo Phật. Thếnhưng, một khi vai trò tiên phong đã không đi đúng pháp, không hướng người theochánh pháp thì chỉ dẫn người vào ma đạo mà thôi. Vậy để văn hồi địa vị cao cảcủa đạo Phật, tất cả Tăng giới phải chỉnh đốn hết thảy mọi mặt mà trong đó cócả nghi lễ. Về nghi lễ, phải chỉnh đốn như thờ tự đơn giản, sự cúng kính phảitrang nghiêm, gạt bỏ những lối thờ cúng thần đạo ra ngoài, lễ phục cũng như tưcách người thực hành nghi lễ, đều phải chỉnh đốn đúng Luật và trang nghiêm mớimong gây được thiện cảm và tín tâm trong lòng người muốn quay về với đạo.

Tôi hy vọng những điều nhận xét trênđây được chư Tăng, Ni đồng cảm và nếu thấy sai thì nên sửa chữa. Tôi cũng mongGiáo hội sẽ sớm đưa ra các nghi thức hành lễ chung cả Tăng tín đồ toàn quốc ápdụng, hầu đem lại lợi lạc cho Phật giáo vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/01/2015(Xem: 21364)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
05/01/2015(Xem: 18926)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
15/12/2014(Xem: 10947)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây, nơi mà chúng ta đã có những tôn giáo của chúng ta, vậy thì tại sao chúng ta cần Phật Giáo? Tôi nghĩ thật quan trọng để hiểu rằng khi chúng ta nói về Phật Giáo, chúng ta có nhiều phương diện khác nhau đối với Phật Giáo. Đấy là những gì chúng ta có thể gọi là khoa học Phật Giáo, tâm lý học Phật Giáo, và tín ngưỡng Phật Giáo:
11/12/2014(Xem: 5909)
Sư nói: - Phật cùng chúng sinh một tâm không khác. Tỷ như hư không, không tạp loạn, không hư hoại. Như vầng nhật lớn chiếu khắp thiên hạ; khi mặt trời lên chiếu sáng khắp nơi, hư không chưa từng sáng. Lúc mặt trời lặn u tối khắp nơi, hư không chưa từng tối. Cảnh sáng tối tự tranh nhau, còn tính của hư không thì rỗng rang không thay đổi.
27/11/2014(Xem: 12514)
Các phương đông, nam, tây, bắc, trên, dưới gọi là “vũ”, tức chỉ không gian vô hạn; từ ngàn xưa đến ngày nay gọi là “trụ”, tức chỉ thời gian vô hạn. Trong triết học gọi là thế giới, tức chỉ tất cả vật chất và toàn bộ hình thức tồn tại của nó. “Vũ trụ” của Phật giáo cũng bao hàm tứ duy (đông nam tây bắc) thượng hạ, quá khứ, hiện tại và vị lai, đồng thời dung chứa thế gian hữu tình vô lượng vô số, và khí thế gian rộng lớn mênh mông. Từ xưa đến nay, con người không ngừng thảo luận và nghiên cứu về sự tồn tại bí ẩn của vũ trụ; từ trong thần thoại của thuở hồng hoang đến sự phát hiện lần lượt của hệ thái dương, hệ ngân hà; sự biến chuyển từng ngày của khoa học khiến cho nhân loại bừng sáng và hiểu ra rằng thời gian và không gian (thời không), hữu tình, vật chất đều tự nhiên rộng lớn vô cùng, vượt xa ngoài phạm trù có thể hiểu biết của loài người.
25/11/2014(Xem: 10942)
Bài chuyển ngữ dưới đây được trích từ một quyển sách mang tựa Con tim giải thoát (A Heart Released) của nhà sư Thái Lan Ajahn Mun (1870-1949). Ajahn Mun và thầy của ông là Ajahn Sao (1861-1941) là những người đã tái lập "Truyền thống tu trong rừng", một phép tu thật khắc khổ và nghiêm túc, nêu cao lý tưởng của một cuộc sống khất thực không nhà của thời kỳ khi Đức Phật còn tại thế. Vị đại sư Ajahn Chah - mà người Thái tôn thờ như người cha sinh ra mình - thuộc thế hệ thứ hai của truyền thống này, và vị thầy của ông không ai khác hơn là Ajahn Mun.
19/11/2014(Xem: 10862)
Có một số người học Phật thích tìm kiếm, thu thập những tư tưởng cao siêu, từ đó đem ra lý giải, phân tích rất hay nhưng phần hạ thủ công phu, tu tập cụ thể như thế nào lại không nghe nói tới! Họ đã quên rằng, kiến thức ấy chỉ là âm bản, chỉ là khái niệm, không phải là cái thực. Cái thực ấy phải tự mình chứng nghiệm. Cái mà mình chứng nghiệm mới là cái thực của mình.
19/11/2014(Xem: 13472)
Văn học là một trong những phương thức biểu đạt tình cảm và trí thức của loài người. Một tác phẩm văn học hay, không chỉ tạo ra tiếng vang rộng lớn tại thời điểm và địa phương nào đó, thậm chí nó có khả năng siêu vượt biên giới thời-không, dẫn dắt nhân tâm bước vào cảnh giới chân- thiện- mỹ. Trong Phật giáo có rất nhiều tác phẩm chính là đại diện cho loại hình này; đặc biệt chính bản thân Đức Phật cũng là nhà văn học tài trí mẫn tiệp, trí tuệ siêu quần.
16/11/2014(Xem: 15257)
Lý thuyết nòng cốt của Phật giáo về sự cấu tạo con người và vũ trụ là năm uẩn. Uẩn có nghĩa là sự chứa nhóm, tích tụ: 5 uẩn là 5 nhóm tạo thành con người. Sở dĩ gọi “nhóm” là vì: 1) Tâm vật không rời nhau, tạo thành một nhóm gọi là uẩn. 2) Gồm nhiều thứ khác nhau họp lại, như sắc uẩn là nhóm vật chất gồm 4 đại địa thủy hỏa phong (chất cứng, chất lỏng, hơi nóng, chuyển động) và những vật do 4 đại tạo thành. 3) Mỗi một nhóm trong 5 uẩn có đặc tính lôi kéo nhóm khác, như sắc uẩn kéo theo thọ, thọ kéo theo tưởng, tưởng kéo theo hành... 4) và cuối cùng ý nghĩa thâm thúy nhất của uẩn như kinh Bát nhã nói, là: “kết tụ sự đau khổ”.
15/11/2014(Xem: 20260)
Nên lưu ý đến một cách phân biệt tinh tế về thứ tự xuất hiện của hai kiến giải sai lầm trên. Đầu tiên là kiến giải chấp vào tự ngã của các nhóm thân tâm, và từ cơ sở này lại xuất phát kiến giải chấp vào tự ngã của cá nhân. Trong trường hợp nhận thức được Tính không thì người ta sẽ nhận ra Tính không của nhân ngã trước; bởi vì nó dễ được nhận ra hơn. Sau đó thì Tính không của pháp ngã được xác định.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]