Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

14. Bồ-tát Thường Bất Khinh

11/01/201115:34(Xem: 5750)
14. Bồ-tát Thường Bất Khinh

THC BIN
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Nhà Xuất Bản TP. HCM, 2003

BỒ-TÁT THƯỜNG BẤT KHINH

Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phậtbảo Bồ-tát Đại Thế Chí rằng: "Các ông nên biết, những vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheoni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thọ trì kinh Pháp Hoa mà nếu ai dùng lời thô ác mắngnhiếc, sẽ bị trọng báo, trái lại, nếu nói lời hiền hòa, chơn thật, người trìkinh này được công đức lơn, sáu căn thanh tịnh".

Như xưa trong thời tượng pháp củađức Phật Oai Âm Vương, giữa hàng Tỷ-kheo tăng thượng mạn có vị Bồ-tát là ThườngBất Khinh. Vị Bồ-tát ấy, bất cứ lúc nào hễ thấy người nào dù xuất gia, tại gia,nam nữ... đều cung kính lễ bài khen ngợi rằng: "Tôi rất kính trọng cácngài, không dám khinh mạn, vì các ngài đều tu hành đạo Bồ-tát, sẽ đặng thànhPhật". Ngoài sự lễ bái tán thán ấy, vị Tỷ-kheo kia không hề đọc tụng kinhđiển gì, nhưng gặp ai cũng chỉ lễ bái, tán thán và nói: "Tôi không dámkhinh các người, các người sẽ được làm Phật". Đến nỗi có người vì tâm chưađặng thanh tịnh, nổi giận mắng nhiếc: "Ông mất trí Tỷ-kheo! Cớ sao đến đâytự nói tôi không dám khinh người và thọ ký ta sẽ thành Phật, đó chỉ là nói dối,ta không tin dùng làm chi". Có khi còn bị người ta lấy roi gậy, ngói đáđánh đập, ông trốn chạy qua một nơi xa mà còn lớn tiếng nói lại: "Tôikhông dám khinh các người, các người đều sẽ làm Phật". Như vậy trải quanhiều năm, dù bị khổ nhục cũng không sanh sân hận, nên các tăng Tỷ-kheo thượngmạn đều gọi vị Tỷ-kheo kia là Thường Bất Khinh. Vị Tỷ-kheo ấy khi mạng chungđược nghe giữa hư không, Phật Oai Âm Vương nói kinh Pháp Hoa, đủ các công đức,lục căn thanh tịnh, sau rộng nói kinh Pháp Hoa lại cho mọi người đều nghe nhưmình đã được nghe vậy.

"Tất cả đều có Phật tánh"."Hết thảy đều làm Phật-đà". Đó là lời dạy "vô tiền khoánhậu", chỉ có đạo Phật mới thừa nhận và thuyết minh cái giá trị vô thượngấy của muôn loài. Đó là một đặc điểm làm cho đạo Phật vượt hẳn lên trên tất cảcác tôn giáo học thuyết thế gian. Cho nên, người Phật tử chân chính là phảiluôn luôn cố gắng phát huy Phật tánh cao quý cho mình và chúng sinh, không xemthường, không khinh rẻ một chúng sinh nào, dù là hạng người mà xã hội cho làthấp kém, huống chi đến sự giết hại một cách vô ý thức, vì tư kỷ, vì vô minh.Vậy nên hết thảy hành động tự lợi, lợi tha của người Phật tử mà gọi rằng lợi,là phải hướng về mục đích "phát huy Phật tánh" ấy.

Phật tử gánh vác nhiệm vụ ấy và hànhđộng với tất cả cố gắng vì tự nhận là bổn phận thì dầu bị khổ nhục, dầu bị taihại gì, cũng bền chí vượt qua và coi đó là thành công, chứ không phải hy sinh.Ngài Bồ-tát Thường Bất Khinh là tượng trưng đầy đủ cho tinh thần Phật tử đóvậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/12/2010(Xem: 20869)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết học và thi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nở ở Ấn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
28/11/2010(Xem: 6476)
Vậy, những loại thực phẩm nào trưởng dưỡng, đưa đến trạng thái điều hòa giữa nội giới và ngoại giới, là điều kiện tất yếu cho sự phát triển của sinh vật trong nấc thang tiến hóa? Khế kinh nói có bốn loại thực phẩm: 1. Đoàn thực hay đoạn thực 2. Xúc thực 3. Ý tư thực 4. Thức thực
28/11/2010(Xem: 4639)
Ngay từ thời khởi nguyên của lịch sử tư tưởng Ấn Độ, thời gian vốn đã là đề tài luôn kích thích mạnh mẽ óc suy tưởng của các triết gia Ấn và khiến họ đi đến nhận định rằng thời gian không những là tác nhân liện hệ đến sự hình thành của vũ trụ mà nó còn là một nhân tố phổ quát chi phối đến vạn vật trong cuộc sống. Dần dần với ảnh hưởng của những trào lưu tư tưởng mới người ta còn xem thời gian là một trong những yếu tố quyết định các hình thái đa dạng của mọi hiện tượng trong thiên nhiên, thậm chí Silanka, một tư tưởng gia của Kỳ Na giáo còn cho rằng thời gian có thể được xem như một nguồn lực tạo nên sự tiến hóa của muôn vật trong thế giới bao la này.
24/11/2010(Xem: 4285)
Bài thơ vận nước có thể giải mã một cách đích xác và cụ thể những yếu tố gì có thể làm cho vận nước được dài lâu. Đó là sự đoàn kết của toàn dân và phẩm chất tài đức của người lãnh đạo. Tổ tiên ta hơn ngàn năm trước đã dùng hình ảnh cuộn mây (đằng lạc). Từng con người có thể yếu yếu ớt như từng chiếc đũa, từng sợi mây, nhưng biết kết hợp lại thì sẽ trở thành một sức mạnh vô địch, không gì có thể phá vỡ được.
22/11/2010(Xem: 15690)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
16/11/2010(Xem: 8699)
Trướchết chúng ta phải hiểu Tâm là gì?Trong tiếng Hán,Tâm là trái tim. Từ cái nghĩa tâm là trái tim, rồi sau mớisuy diễn ra tâm là tấm lòng, cho rằng tâm là tấm lòng suynghĩ. Một bài thơ chữ Hán nói về tâm theo nghĩa này nhưsau:
16/11/2010(Xem: 11335)
Hiện nay, thế giới đang có sự rối loạn, không hiểu biết, tranh cãi về bệnh tâm thần, thiền định, và sự liên hệ giữa hai đề tài này. Các chuyên gia về sức khỏe thể chất, và tâm thần cũng không hiểu rõ phạm vi nghề nghiệp của họ. Họ cũng không hiểu cái gì là thiền định. Bởi vậy đối với người bình thường họ sẽ rất bối rối.
13/11/2010(Xem: 4090)
Phật giáo, trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của mình đã trải qua nhiều giai đoạn với sự phân hoá thành những bộ phái và giáo lý khác nhau. Tựu trung, có thể chia làm hai trường phái tư tưởng lớn là Tiểu thừa (Hīnayāna) và Đại thừa (Mahāyāna). Tư tưởng của Đại thừa chủ yếu có thể quy thành ba hệ chính là Tánh không (Śūnyatā), Duy thức (Vijñapti-mātratā) và Như Lai Tạng (Tathāgata-garbha).
13/11/2010(Xem: 4142)
Chúng ta thấy rằng sau khi tìm ra thuyết lan truyền nội tại Thế Thân đã tiếp tục tái khảo sát nhiều vấn đề khác nhau xoay quanh nhiều thuyết tri nhận đã được rất nhiều trường phái của thời ông đề ra. Những vấn đề này hình như đã không được giải quyết; và trong khi khảo sát chúng, ông đã nhận ra rằng nếu muốn giải quyết thì phải đưa ra một phương pháp hoàn toàn mới mà khái niệm cơ bản của nó chính là khái niệm về sự tự tri.
11/11/2010(Xem: 20228)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]