Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Ngôi chùa Việt Nam

11/01/201115:31(Xem: 5826)
12. Ngôi chùa Việt Nam

THC BIN
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Nhà Xuất Bản TP. HCM, 2003

NGÔI CHÙA VIỆT NAM

Ngày xưa, một nhà Nho tên là LêQuát, học trò của Chu Văn An, đã từng thắc mắc về đạo Phật rằng: "Đạo Phậtchỉ đem đều hoạ phúc làm lay động lòng người, sao mà sâu xa bền chắc đến nhưvậy. Trong từ kinh thành, ngoài đến thôn phủ, đường cùng ngõ hẻm, không hiểu màtheo, không thấy mà tin, hễ nơi nào có người ở là nơi ấy có chùa Phật. Bỏ đithì làm lại, hư đi thì sửa lại". Nếu hiểu đúng thì không phải chỉ có haichữ hoạ phúc làm động lòng người được. Kinh nói hoạ phúc là cốt nói hành độngthiện ác, bởi vì hành động thiện gây ra phúc, hành động ác gây ra hoạ. Nói hànhđộng thiện ác là cốt nói mê ngộ, nghĩa là, nếu giác ngộ thì thiện mà mê lầm thìác. Nhưng nói mê ngộ cũng cốt nói về tâm, bởi vì mê là do tâm mà ngộ cũng dotâm. Do vậy mà đức Phật chú trọng giác ngộ tâm. Khi tâm đượcgiác ngộ thì hànhđộng mới sáng suốt, mà hành động sáng suốt thì cuộc đời sẽ được an vui. Vì vậy,lời dạy đó càng ngày càng thấm thía vào lòng người, lay động lòng người hướngvề với Phật. Khi đã hướng về với Phật thì dựng chùa để thờ Phật, để mỗi ngàythấy Phật trên bàn thờ, nhờ đó mà khắc hoạ đậm nét hình ảnh Phật trong tâm. Chonên, khi nào chúng ta thấy được Phật trong tâm thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ thấyPhật trên bàn thờ một cách đúng đắn. Nếu không như thế thì như trong kinhKim-cang đức Phật đã nói: "Nếu lấy sắc thấy Ta, lấy âm thanh cầu Ta,người đó hành tà đạo, không thể thấy Như lai". Cho nên khi nào thấytâm thì mới thấy Phật được một cách đầy đủ viên mãn. Vì vậy mới dựng chùa thờPhật.

Theo dòng lịch sử lâu đời của ViệtNam thì Phật giáo được truyền vào đất nước chúng ta biết một cách rõ ràng nhấtlà vào thời Sĩ Nhiếp. Thời đó đã có một số ngôi chùa ở tại Luy Lâu, sau đó cóThiền sư Đồ Lê đến đây tu tập, rồi từ đó, các chùa Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôivà Pháp Điện được xây dựng. Cũng đuợc biết chùa Khai Quốc do triều Lý Nam Đếxây dựng mà bây giờ đuợc gọi là chùa Trấn Quốc, hiện ở tại Hồ Tây - Hà Nội. Vềsau, các chùa trong các đời Lý, đời Trần tiếp tục mọc lên rất nhiều cũng là đểđáp ứng lại lòng tin tưởng của người con Phật. Ngôi chùa đã lan tràn khắp nơikhắp xứ, sống một cách khiêm tốn, không ngạo nghễ khoe khoang, cùng với mọinguời dân đồng lao cộng khổ và ngôi chùa đã trở thành hình tượng thân thương,nó đã đi vào lòng người và nó cũng đã đi vào Ca dao, Tục ngữ Việt nam

- Con chùa vua nước.
- Đất vua chùa làng.
- Ăn mày cửa Phật.
- Chùa rách Phật vàng.
- Sống ở nhà, già ở chùa.
- Trẻ vui nhà, già vui chùa.
- Trốn chúa ở chùa.
- Lên chùa thấy Phật muốn tu.
- Ba cô đội gạo lên chùa.
- Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa.
- Gần chùa gọi Bụt bằng anh.
- Xa chùa trống vắng, gần chùa thính tai.

Hoặc:

- Chùa làng dựng ở xóm côi,
Sớm khuya hai buổi nghe hồi chuông ngân.
- Con ai đem bỏ chùa này,
Nam mô Di Phật, con thầy thầy nuôi.
- Bao giờ cạn lạch Đồng Nai,
Nát chùa Thiên Mụ, mới phai lời nguyền.
- Biển đông sóng dợn cát đùa,
Sánh đôi không đặng lên chùa anh tu.
- Bình Lục có núi con Rùa,
Trông sang Đạm Thủy có chùa Ngọc Thanh.
- Bên chợ Đông Ba, tiếng gà eo éc,
Bên chùa Thọ Lục, tiếng trống sang canh.
Giữa sông Hương gợn sóng khuynh thành,
Đêm khuya một chiếc thuyền mành ngửa nghiêng.
- Ba phen tàu hổi cả ba,
Phen này hổi nữa lên chùa đi tu.
- Lên chùa thấy Phật muốn tu,
Về nhà thấy mẹ công phu chưa đền.
- Đầu làng có một cây đa,
Cuối làng cây thị, đàng xa ngôi chùa.
Dù ai đi sớm về trưa,
Xin anh nghỉ bóng cây dừa nhà em.
- Rủ nhau xem cảnh Kiếm hồ,
Xem chùa Thê Húc, xem đền Ngọc Sơn.
Đài nghiên tháp bút chưa mòn,
Hỏi ai gây dựng nên non nước này.

Chùa là cái gì gần nhất với tâm thứcngười dân cho nên biểu tượng đó sẽ khiến cho người ta tin vào để nói những cáigì ngưòi ta muốn nói. Nhưng đó là nói về người ở chùa mà không phải là nói vềchùa.

- Rủ nhau xuống bể mò cua.
Lên non bẻ củi, vào chùa nghe kinh.

Xuống bể mò cua, lên non bẻ củi lànói dân ta gắn liền với non, với nước và đồng thời cũng gắn liền với chùa. Gắnliền với non với nước là để nuôi sống thân. Gắn liền với chùa là để nuôi sốngtinh thần: Đến chùa nghe kinh

Vậy thì kinh dạy gì? Kinh dạy cáchlàm người làm người tại thế, làm người siêu thế.

Trong thơ văn Việt Nam hiện đại, cómột nhà thơ cũng có bài thơ diễn tả cảnh chùa rất thấu tình đạt ý, thâm thuý vôcùng:

"Quê tôi có gió bốn mùa,
Có trăng giữa tháng, có chùa quanh năm.
Chuông hôm gió sớm trăng rằm,
Chỉ thanh đạm thế, âm thầm thế thôi.
Mai nay tôi bỏ quê tôi,
Bỏ trăng bỏ gió, chao ôi bỏ chùa".

Nhà thơ trên đây đã nói lên cái tâmtình của ngươi dân Việt Nam chúng ta đối với chùa. Chùa là cái hồn của dân tộc,vừa thân thương gần gũi, vừa tình cảm sâu lắng, dàn trải sâu rộng trong lòngngười như máu với thịt, như hơi thở và bữa ăn hằng ngày. Vì thế, khi Phật giáotruyền vào nước ta thì liền được mọi ngườì dân chấp nhận và chùa càng trở nênyêu dấu hơn:

"Làng tôi nhỏ bé xinh xinh,
Chung quanh có lũy tre xanh rườm rà,
Trong làng san sát nóc nhà,
Đình làng lợp ngói có vài cây cau.
Chùa làng rêu phủ mái nâu,
Dân làng thờ cúng để cầu bình an".
(Ca dao Việt Nam).

Chùa còn là nơi dạy thuật làm người,thuật luyện tâm: Nhất thiết duy tâm tạo.

Ngày xưa, có nhà hiền triết tên làSocratae thời cổ Hy Lạp. Một hôm đi trên đường ở thành A-ten thấy một chàngthanh niên đi ngược chiều trở lại, chàng ta đang hân hoan tự mãn với cái mũ,với bộ áo quần với đôi giày mới bảnh bao của mình, nhà hiền triết lấy gậy chặnlại. Khi bị chặn lại, chàng thanh niên trong lòng đầy tự mãn hỏi rằng:

- Ông muốn mua cái mũ này sao?

- Không, tôi không muốn mua mũ.

- Hay là ông muốn mua bộ áo quầnnày?

- Không, tôi cũng không muốn mua bộáo quần.

- Hay ông ưa mua đôi giày này?

- Không, tôi cũng chẳng muốn đôigiày.

- Vậy thì ông muốn gì mà chặn tôilại?

- Tôi muốn anh chỉ cho tôi chỗ nàodạy cách học làm người?

Nếu như mất tư cách làm người, thìcái mũ đó không thể gọi cái mũ đội trên đầu người! Cái áo đó cũng không phải làcái áo mặc vào người và đôi giày cũng chẳng phải giày để đi vào người. Cho nên,phải học cách làm người cho ra người mới là cách cơ bản cho tất cả mọi thứ. Khitư cách và thái độ làm người còn, thì mọi sự tốt đẹp còn, khi tư cách làm ngườikhông còn, thì mọi sự tốt đẹp chỉ là sự tốt đẹp bên ngoài.

Do đó, chuyện làm chùa chúng ta phảiý thức rõ ràng là làm thế nào để sự đi chùa và ngôi chùa đó luôn luôn ấp ủ lòngtừ bi, yêu thương, và ngôi chùa là nơi phát huy được trí tuệ sáng suốt, giúpích cho đời sống của chúng sinh, của mọi người mỗi ngày mỗi thăng hoa, mỗi ngàymỗi xa dần chỗ tối tăm đau khổ mà bước lên cảnh an lạc giải thoát. Làm chùa nhưthế tất nhiên ai cũng đồng tình, và tôi tin chắc rằng ngôi chùa như thế sẽ lànơi luôn có những hàng Phật tử, những bậc cao quý, thành phần trí thức đến chùađể học hỏi tiến tu. Cũng như trước đây trong thời Bắc thuộc, các ngôi chùa củachúng ta chính là nơi đào tạo nhân tài cho đất nước, đến triều đại nhà Lý mớimở khoa thi Tam trường. Vậy thì trong các thời kỳ ấy, các nhà trí thức của đấtnước chúng ta học ở đâu? Phần nhiều đều dựa vào chùa. Thành thử ngôi chùa nó đãđóng góp công lao với đất nước rất lâu xa trong lịch sử, một sự đóng góp thật sự,không có một hậu ý gì khác, nghĩa là muốn hòa mình, cùng vinh cùng nhục với đấtnước, với toàn dân để xây dựng một đất nước an lành hạnh phúc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/12/2010(Xem: 21054)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết học và thi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nở ở Ấn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
28/11/2010(Xem: 6530)
Vậy, những loại thực phẩm nào trưởng dưỡng, đưa đến trạng thái điều hòa giữa nội giới và ngoại giới, là điều kiện tất yếu cho sự phát triển của sinh vật trong nấc thang tiến hóa? Khế kinh nói có bốn loại thực phẩm: 1. Đoàn thực hay đoạn thực 2. Xúc thực 3. Ý tư thực 4. Thức thực
28/11/2010(Xem: 4656)
Ngay từ thời khởi nguyên của lịch sử tư tưởng Ấn Độ, thời gian vốn đã là đề tài luôn kích thích mạnh mẽ óc suy tưởng của các triết gia Ấn và khiến họ đi đến nhận định rằng thời gian không những là tác nhân liện hệ đến sự hình thành của vũ trụ mà nó còn là một nhân tố phổ quát chi phối đến vạn vật trong cuộc sống. Dần dần với ảnh hưởng của những trào lưu tư tưởng mới người ta còn xem thời gian là một trong những yếu tố quyết định các hình thái đa dạng của mọi hiện tượng trong thiên nhiên, thậm chí Silanka, một tư tưởng gia của Kỳ Na giáo còn cho rằng thời gian có thể được xem như một nguồn lực tạo nên sự tiến hóa của muôn vật trong thế giới bao la này.
24/11/2010(Xem: 4305)
Bài thơ vận nước có thể giải mã một cách đích xác và cụ thể những yếu tố gì có thể làm cho vận nước được dài lâu. Đó là sự đoàn kết của toàn dân và phẩm chất tài đức của người lãnh đạo. Tổ tiên ta hơn ngàn năm trước đã dùng hình ảnh cuộn mây (đằng lạc). Từng con người có thể yếu yếu ớt như từng chiếc đũa, từng sợi mây, nhưng biết kết hợp lại thì sẽ trở thành một sức mạnh vô địch, không gì có thể phá vỡ được.
22/11/2010(Xem: 16018)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
16/11/2010(Xem: 8730)
Trướchết chúng ta phải hiểu Tâm là gì?Trong tiếng Hán,Tâm là trái tim. Từ cái nghĩa tâm là trái tim, rồi sau mớisuy diễn ra tâm là tấm lòng, cho rằng tâm là tấm lòng suynghĩ. Một bài thơ chữ Hán nói về tâm theo nghĩa này nhưsau:
16/11/2010(Xem: 11461)
Hiện nay, thế giới đang có sự rối loạn, không hiểu biết, tranh cãi về bệnh tâm thần, thiền định, và sự liên hệ giữa hai đề tài này. Các chuyên gia về sức khỏe thể chất, và tâm thần cũng không hiểu rõ phạm vi nghề nghiệp của họ. Họ cũng không hiểu cái gì là thiền định. Bởi vậy đối với người bình thường họ sẽ rất bối rối.
13/11/2010(Xem: 4157)
Phật giáo, trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của mình đã trải qua nhiều giai đoạn với sự phân hoá thành những bộ phái và giáo lý khác nhau. Tựu trung, có thể chia làm hai trường phái tư tưởng lớn là Tiểu thừa (Hīnayāna) và Đại thừa (Mahāyāna). Tư tưởng của Đại thừa chủ yếu có thể quy thành ba hệ chính là Tánh không (Śūnyatā), Duy thức (Vijñapti-mātratā) và Như Lai Tạng (Tathāgata-garbha).
13/11/2010(Xem: 4180)
Chúng ta thấy rằng sau khi tìm ra thuyết lan truyền nội tại Thế Thân đã tiếp tục tái khảo sát nhiều vấn đề khác nhau xoay quanh nhiều thuyết tri nhận đã được rất nhiều trường phái của thời ông đề ra. Những vấn đề này hình như đã không được giải quyết; và trong khi khảo sát chúng, ông đã nhận ra rằng nếu muốn giải quyết thì phải đưa ra một phương pháp hoàn toàn mới mà khái niệm cơ bản của nó chính là khái niệm về sự tự tri.
11/11/2010(Xem: 20410)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]