Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

VIII. Phẩm Phân biệt định

11/11/201018:06(Xem: 10607)
VIII. Phẩm Phân biệt định

VIII.PHẨM PHÂN BIỆT ÐỊNH

Ðã giảngvề phẩm Trí là thân nhân của sự giác ngộ, đây phẩm Phânbiệt định nói về sơ duyên của sự giác ngộ. Phẩm nàycó 39 bài tụng, 38 bài đầu nói công đức của các định,một bài 39 nói vềì chánh pháp trụ thế. Chánh pháp củaPhật có giáo và chứng. Giáo pháp thì do có người thụ trìvà giảng nói đúng đắn mà được trụ thế. Còn chứng phápthì do có người nương giáo như thật tu hành mà được trụthế.

Trongcác công đức thiền định, phần đầu nói về các địnhlàm chỗ nương, phần sau nói về các công đức nương tựaThiền định như khoa biểu dưới đây:

Khoamục phẩm ĐịnhCôngđức các ĐịnhCácĐịnh làm chỗ nương4tịnh lự
4vô sắc
8đẳng chí
Cácđẳng chí
Côngđức nương tựa4vô lượng
8giải thoát
8thắng xứ
10biến xứ
Ðắcnương nơi thân
Duyênkhởi định
Chánhpháp trụ thế

ÐOẠNI. CÁC ÐỊNH LÀM CHỖ NƯƠNG

Cóbốn tiết:

*TIẾT I: BỐN TỊNH LỰ

Ðịnhcó hai là sanh sắc định và tu sắc định. Sanh sắc địnhlà định do đã tu tập từ trước, khi sanh tự nhiên đượcđịnh. Tu đắc định là do tu tập dần dần mà chứng đắc.Sanh sắc định có tám là bốn tịnh lự và bốn vô sắc.Tịnh lự nói đủ là tịch tịnh thẩm lự. Do định tịchtịnh mà phát sinh tuệ có khả năng suy xét. Danh từ tịnhlự không phải hạn chỉ định sắc giới, định vô sắcgiới cũng là tịnh lự, song chỉ và quán cân bằng có khảnăng suy xét mạnh thì chỉ có định sắc giới, nên gọi địnhsắc giới là bốn tịnh lự Tịnh lự này gồm có năm chilà tầm, tứ, hỷ, lạc (khinh an), nhất tâm. Căn cứ năm chinày để phân chia bốn tịnh lự. Ðủ cả năm chi là Sơ thiền.Lìa tầm tứ chỉ có hỷ lạc nhất tâm là Nhị thiền. Lìatầm tứ hỷ chỉ có lạc nhất tâm là Tam thiền. Lìa tầmtứ hỷ lạc chỉ có nhất tâm là Tứ thiền.

*TIẾT II: BỐN ÐỊNH VÔ SẮC

Bốnđịnh vô sắc cốt khiến tâm chuyên chú nơi cảnh tánh làmchính yếu. Do sự xa lìa ô nhiễm ở dưới mà dần bướclên trên có bốn bậc: Trong khi tu gia hạnh muốn xa lìa sắcvà tâm chuyên nghĩ tới không vô biên, khi gia hạnh thành tựuthì bước vào không vô biên, cho đến khi tu gia hạnh muốnxa lìa Vô sở hữu mà nghĩ tới Phi tưởng phi phi tưởng, khigia hạnh thành tựu thì bước vào phi tưởng phi tưởng. Ởđây vì không có tưởng rõ ràng, thù thắng nên gọi là phitưởng, nhưng còn có tưởng lờ mờ yếu ớt nên gọi làphi phi tưởng, ở tại Hữu đỉnh địa.

*TIẾT III: TÁM ÐẲNG CHÍ

Bốntịnh lự và bốn định vô sắc cũng còn gọi là tám đẳngchí. Vì định có bảy tên: Ðẳng dẫn (Tam-ma-hê-đa: Sammahedha);Ðẳng trì (Tam-ma-địa, Sammad-hi); Ðẳng chí (Tam-ma-bát-đề,Sammabadhi); Tịnh lự (Ðà-diễn-na: Dhyana); Tâm nhất cảng tánh(Chất-đa-y-ca A-kiết-la-đa, Citta-ekayrata); Chỉ (Xa-ma-tha: Samatha);Hiện pháp lạc trú. Trong đây đẳng dẫn đẳng chí tịnhlự thông cả hữu tâm định và vô tâm định. Bốn thứ cònlại chỉ có ở hữu tâm định. Lại đẳng trì và nhất tâmcảnh tánh thì thông cả định địa và tán địa, còn nămthứ kia chỉ có ở định địa. Ðẳng chí dùng trong tiếtnày là một trong bảy tâm định. Nó có ba thứ: Vị đẳngchí, là khi tâm tương ưng với tham, sân, đắm say nơi cảnhmà có định tâm. Tịnh đẳng chí là khi tâm tương ưng vớivô tham khởi lên tánh định là thiện hữu lậu. Vô lậu đẳngchí là tâm đã thoát khỏi mọi phiền não ố cấu phát sinhđịnh thiện rất cao và khi được định này tâm không cònbị lay động tán loạn, có khả năng phát sinh trí lực chơnchánh.

*TIẾT IV: BỐN THỨ TỊNH ÐỊNH

Chiatịnh đẳng chí ở trên ra làm bốn phần: Thuận thối phầnđịnh, là thuận với phiền não dễ bị thối thất; thuậntrú phần định là thuận với tự địa mà an trú, không thốikhông tiến; thuận thắng tấn định là thuận theo đị trênmà tiến lên; thuận quyết trạch phần định là thuận vớivô lậu tiến đến kiến đạo, cho nên thuận quyết trạchphần định này là cái duyên rất tốt giúp cho vô lậu đẳngchí nói trên, phát khởi chơn trí vô lậu dứt hết phiềnnão.

Khisắp sửa vào tám căn bản định (bốn thiền, bốn không)lại có tám cận phần định, thành ra tám căn bản địnhvà tám cận phần định. Và cận phần định của Sơ thiềncòn được gọi là vị chí định.

ÐoạnII. CÁC CÔNG ÐỨC NƯƠNG TỰA ÐỊNH

*TIẾT I: BỐN TÂM VÔ LƯỢNG

Từvô lượng, tâm cho vui đến chúng sanh, lấy vô sân làm thể,đối trị tâm sân hận. Bi vô lượng, tâm cứu khổ cho chúngsanh, lấy vô sân, bất hại làm thể đối trị tâm làm hại.Hỷ vô lượng, tâm hoan hỷ khi thấy chúng sanh lìa khổ đượcvui, lấy hỷ thọ làm thể đối trị tâm buồn phiền, ganhtị. Xả vô lượng, tâm bình đẳng không phân biệt oán thuậnđối với chúng sanh, lấy vô tham vô sân làm thể đối trịtâm tham sân cõi Dục.

Bốntâm này sở dĩ gọi vô lượng vì ba lẽ: Vì đối vô lượngchúng sanh, vì dẫn sanh ra vô lượng phước, vì đến quảbáo tốt đẹp vô lượng.

Thửbàn đến Từ vô lượng, người muốn tu từ tâm, trước hếtsuy nghĩ về cái vui mình có, hoặc nghe nói cái vui tuyệt diệucủa chư Phật, Bồ-tát, liền nghĩ rằng mong sao tất cả chúngsanh đều có được sự vui này. Nếu chưa đủ sức vận tâmbình đẳng như vậy thì có thể chia chúng sanh ra làm ba hạnglà người thân, người không thân không oán, người oán. Ðốivới người thân lại chia làm ba bậc, thân nhất như cha mẹ,thân vừa như bạn bè giao hảo vừa tiền tài vừa đạo nghĩa,người thân ít như bạn bè giao hảo tiền của. Hạng ngườikhông thân không oán chỉ một bậc. Hạng người oán cũngchia ba bậc, oán ít như kẻ cướp của bạn mình, oán vừanhư kẻ cướp của mình, oán nhiều như kẻ xâm phạm tánhmạng mình và thân hữu mình. Vận dụng tư tưởng thâu hẹpdần dần sự cách biệt giữa người thân và người oán,cho đến khi phát khởi tâm bình đẳng, mất đi tướng ngườirất thân và người rất oán, chỉ còn lại tướng chúng sanhkhông sai biệt, cần đem tâm cho vui đồng nhất phổ cập đếnmọi chúng sanh, từ một thôn đến một quận, một nước,cuối cùng khắp cả thế giới chúng sanh. Ðó là sự tu tậpvề Từ vô lượng tâm. Tu tập về ba vô lượng tâm Bi, Hỷ,Xả cũng giống như vậy. Song khi tu Xả vô lượng tâm thìđối trong bảy bậc chúng sanh, trước hết xả đối hữutình bậc hạ, rồi xả đối hữu tình bậc giữa, rồi đếnbậc thượng, cuối cùng là xả đối với người thân nhất.Vì đối với người oán dễ xả, còn đối

*TIẾT II: TÁM GIẢI THOÁT

1.Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát, nghĩa làcó lòng tham sắc tướng đối với nội thân. Muốn trừ lòngtham đó, quán sát sắc bất tịnh ở bên ngoài như thây chếtbầm xanh v.v... thì lòng tham sắc về tướng ở nội thân khôngkhởi lên được, đấy gọi là giải thoát.

2.Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát, nghĩa làkhông còn lòng tham về sắc tướng đối với nội thân, vìlòng tham ấy đã trừ, song muốn cho vững chắc, nên vẫn tiếptục quán sát bất tịnh bên ngoài, lòng tham kia không khởilên được nữa.

3.Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trú, nghĩa là bâygiờ dù nhìn tịnh sắc, lòng tham vẫn không khởi lên, đấylà tịnh giải thoát và chứng đắc tính cách tịnh giải thoátngay trong thân đầy đủ viên mãn, an trụ nơi định đó gọilà thân tác chứng cụ túc trú.

4.Không vô biên xứ giải thoát.

5.Thức vô biên xứ giải thoát.

6.Vô sở hữu xứ giải thoát.

7.Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.

Bốngiải thoát này đều xả bỏ lòng tham của các địa dướigọi là giải thoát.

8.Diệt thọ tưởng định giải thoát, thân tác chứng cụ túcnói tắc là Diệt tận định, định này chủ yếu chán bỏhai tâm thọ và tưởng, vĩnh viễn an trú vô tâm nên gọi làgiải thoát.

Trongtám giải thoát, ba thứ đầu lấy vô tham làm thể, và trongba thứ này, hai thứ đầu nương tựa vào sơ nhị tịnh lựlấy cảnh sắc đáng ghét ở cõi Dục làm đối tượng. Cáithứ ba nương tựa vào tịnh lự thứ tư, duyên lấy cảnhsắc đáng ưa ở cõi Dục làm đối tượng. Còn bốn vô sắcgiải thoát kia thì lấy bốn thiền định cõi Vô sắc làmthể, và tự duyên lấy Khổ, Tập, Diệt, Ðạo ở tự địavà địa trên, cùng duyên đạo loại trí của chín địa làmđối tượng.

Lạitrong tám giải thoát này, chỉ cái thứ ba, thứ tám còn kèmtheo chữ thân tác chứng là vì sao? Vì hai lẽ: Vì thù thắngnghĩa là cái giải thoát thứ ba chỉ quán về tịnh tướngvẫn không khởi tâm tham ái. Còn cái giải thoát thứ tám làvô tâm, còn bảy cái giải thoát kia là hữu tâm. Vì nó ởvào cuối cùng của cõi Sắc và cõi Vô sắc, nghĩa là cáigiải thoát thứ ba thì nương tựa tịnh lự thứ tư cõi Sắc,còn cái giải thoát thứ tám thì nương tựa Hữu đỉnh địacủa Vô sắc giới.

*TIẾT III: TÁM THẮNG XỨ VÀ MƯỜI BIẾN XỨ

Támthắng xứ là trong có sắc tưởng quán sắc ngoài ít, trongcó sắc tưởng quán sắc ngoài nhiều, trong không sắc tưởngquán sắc ngoài ít, trong không sắc tưởng quán sắc ngoàinhiều, trong không sắc tưởng quán sắc ngoài xanh, trong khôngsắc tưởng quán sắc ngoài vàng, trong không sắc tưởng quánsắc ngoài đỏ, trong không sắc tưởng quán s?c ngoài trắng.Trong đây hai cái 1, 2 giống cái giải thoát thứ nhất trênkia, hai cái 3, 4 giống cái giải thoát thứ hai trên kia, bốncái sau giống cái giải thoát thứ ba tên kia. Sao gọi thắngxứ? Là chế phục được cảnh sở duyên, tâm ở vào cảnhthù thắng vậy.

Mườibiến xứ là quán sát mười pháp sau đây biến khắp tấtcả mọi nơi. Từ quán đại địa biến khắp mọi nơi chođến quán thủy đại, hỏa đại, phong đại, sắc xanh, sắcvàng, sắc đỏ, sắc trắng, không vô tận, thức vô tận mỗimỗi đều biến khắp mọi nơi, nên gọi biến xứ.

*
**

PHẦNLƯU THÔNG

Phầnnày trình bày bằng bốn bài tụng:


Ca-Thấp-di-laNghị lý thành

Ngãđa y bỉ thích đối pháp,

Thiểuhữu biếm lượng vi ngã thất,

Phánpháp chánh lý tại Mâu-ni.

Ðạisư thế nhãn cửu dĩ bế,
Khamvị chứng giả đa tán diệt.

Bấtkiến chơn lý vô chế nhơn,

Dobỉ tầm tư loạn thánh giáo.

Tựgiác dĩ quy thắng tịch tịnh,
Trìbỉ giáo giả đa tùy diệt.

Thếvô y hộ tán chúng đức,

Vôcâu chế hoặc tùy ý chuyển.

Kýtri Như Lai chánh pháp thọ,
Tiệmthứ luân vong như chí hầu.

Thịchư phiền não lực tăng thời,

Ưngcầu giải thoát vật phóng dật. (XX)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/01/2012(Xem: 7589)
Vô tận trong lòng bàn tay, Sự dị biệt giữa tôn giáo và khoa học được đánh dấu khởi đầu từ luận đề của Galilée và từ đó đã khiến nhiều người cho là hai thế giới này không thể nào gặp nhau được. Einstein khi đối chiếu Phật Giáo với các tôn giáo khác đã cho là: nếu có một tôn giáo có thể đáp ứng được những nhu cầu đòi hỏi của khoa học, thì chính đó là Phật giáo. Einstein muốn nói tới tính cách thuần lý và thực tiển của Phật Giáo, khi ông so sánh thấy các tôn giáo khác chỉ dựa trên kinh điển và giáo điều. Đúng như điều Einstein cảm nhận, Ph
15/01/2012(Xem: 8790)
Sự thể hiện đích thực về đờisống của người Phật tử không phải là ngôn ngữ, kiến thức mà là hành động. Tọathiền là quan trọng; giữ tâm điềm tĩnh, lắng dịu và nghiêm túc trong quá trìnhhành thiền là cần thiết, nhưng đấy không phải là nhiệm vụ khó khăn nhất. Nhiệm vụ khó khăn nhất ấy là đem tâm nghiêm túc ấy vào trong đời sống thường nhật... Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
15/01/2012(Xem: 6772)
Phật đã bỏ loài người…(1) Điệp khúc ấy lâu lâu lại thấy đâu đó trên những đoạn đường đi qua. Nó đếnvà đi như bao chuyện khác trong đời. Chuyện phiếm trong đời quá nhiều, đâu đángbận tâm. Cho đến cái ngày, nó được thổi vào trong thơ của một ai đó như một bài“Thiền ca”… Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
07/01/2012(Xem: 6454)
Chúng ta hãy đừng lừa dối chính mình, điều này tưởng chừng như không khó khăn nhưng thật sự đó là điều khó nhất trong tất cả các trạng thái mà chúng ta có thể đạt được. Bằng cách "Không lừa dối chính mình", nghĩa là tôi muốn nói chúng ta hãy ngưng vẽ một bức tranh của thế giới ngày nay bằng những sai lầm với các màu sắc khoái lạc, vì tiện nghi và an toàn cho riêng mình. Chúng ta, toàn thế giới, phải đương đầu với sự sai lầm này, thật là tệ. Chúng ta phải thật sự lưu tâm đến hoàn cảnh của chúng ta đang sống. Chúng ta cần phải truy nguyên tận căn để của tất cả các mối nghi ngờ và hiểu lầm của mình, và chúng ta có thể bắt đầu như thế nào để loại trừ nó một cách tốt nhất. Và chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng, nếu chúng ta không thực hiện điều này, chúng ta phải đối đầu với các trở ngại đó.
07/01/2012(Xem: 8140)
Sángnay nắng vàng rực rỡ. Những tia nắng trong suốt xuyên qua các cành cây kẻ lánơi tinh xá Kỳ Viên. Trên các lối mòn, những con đường chung quanh khu vườn đượctươi hẳn lên, tỏa mùi thơm thoang thoảng, hương vị những bước SakyAmuniBuddha248chân thiền hành củaĐức Thế Tôn. ..Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng...
30/12/2011(Xem: 6057)
Trên đời này có hai thứ cao quý nhất đó là bảy thứ: vàng, bạc, ngọc lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não còn được gọi là thất bảo và phật pháp tăng. Các thứ cao quý ấy được xuất phát từ thế gian. Các loại ngọc và vàng bạc được có trong lòng đất với thời gian cả ngàn năm, tỷ năm do môi trường của đất tạo nên. Các thứ ngọc gọi là đá quý, còn vàng bạc gọi là kim loại quý.
14/12/2011(Xem: 8250)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
10/11/2011(Xem: 3318)
Đạo Phật không ca ngợi sự nghèo khổ, cũng như không phê phán sự giàu có. Bởi vì, giàu nghèo chỉ là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh. Cứu cánh là sự an lạc thật sự của thân tâm, chỉ có thể đạt tới được bằng đạo đức và trí tuệ...
25/10/2011(Xem: 6834)
Thái độ của Phật giáo liên quan đến sự hòa điệu phi thường này như thế nào? Phật giáo có chấp nhận ý niệm có một Đấng Sáng Tạo toàn tri hay là một nguyên lý sáng tạo có khả năng điều chỉnh sự tiến triển của vũ trụ một cách tuyệt vời? Hay Phật giáo cho rằng sự hòa điệu chính xác và tuyệt vời của vũ trụ chẳng qua chỉ là một tình cờ may mắn? Vấn đề có hay không một Đấng Sáng Tạo?
10/08/2011(Xem: 3703)
Thuyết nhân quả của nhà Phật, nói đủ là nhân-duyên và quả là một triết lý mang tính khoa học, qui luật tự nhiên của vũ trụ, không mang tính chất hình thức của sự thưởng phạt từ một đấng quyền năng nào. Hiểu vậy, trong cuộc sống, chúng ta vui vẻ đón nhận những khổ đau bất thường xảy đến với mình như một kết quả do chính mình tạo nhân từ trước. Từ đó suy nghiệm ra, lý nhân quả chi phối cả vũ trụ nhân sinh. Nếu tin sâu nhân quả, chúng ta sẽ được thăng hoa trên đời sống tâm linh, trở nên hiền thiện đạo đức. Ngược lại, nếu không tin nhân quả, cuộc sống chúng ta trở nên liều lĩnh và càn bừa, bất chấp hậu quả.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567